NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG CÔNG TÁC LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” (Nghị quyết số 37), Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Hướng dẫn quán triệt và thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, tổ chức hội nghị trực tuyến học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết trên phạm vi toàn quốc, kết nối đường truyền với 63 tỉnh, thành ủy. Kết quả việc triển khai học tập, quán triệt Nghị quyết đã góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác lý luận; về phương châm, nhiệm vụ, các hướng nghiên cứu và các biện pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác lý luận đến năm 2030.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 37, công tác lý luận của Đảng vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều vấn đề lý luận cơ bản chưa được nghiên cứu toàn diện, một số vấn đề mới, khó chậm được làm sáng tỏ. Tính ứng dụng trong thực tiễn của sản phẩm nghiên cứu của một số chương trình, đề tài, đề án nghiên cứu, kết quả các cuộc hội thảo, tọa đàm lý luận còn nhiều hạn chế. Tính phát hiện mới, bổ sung, phát triển lý luận, hàm lượng khoa học, tính sáng tạo trong một số công trình nghiên cứu chưa cao. Năng lực dự báo của công tác nghiên cứu lý luận còn hạn chế. Phương pháp nghiên cứu còn lạc hậu, chậm cập nhật. Việc nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu những kết quả nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của nước ngoài còn thụ động, một chiều (sử dụng những thuật ngữ của phương Tây, thuật ngữ mới chưa xác định rõ nguồn gốc tư tưởng, trường phái, nội hàm, thậm chí đa nghĩa).
Bốn định hướng nghiên cứu lớn được xác định trong Nghị quyết số 37-NQ/TW triển khai chưa cân đối, chủ yếu tập trung vào triển khai nghiên cứu theo định hướng thứ tư, đó là: Nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh những luận cứ khoa học làm cơ sở hoạch định đường lối, chính sách của Đảng.
Thứ hai, vấn đề phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tình trạng chậm đổi mới tư duy, giáo điều, máy móc, khó chấp nhận cái mới hoặc quá vội vàng với cái mới vẫn là rào cản căn bản trong tổ chức nghiên cứu và sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận chính trị.
Thứ ba, việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập lý luận chính trị có nhiều tiến bộ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Một số nội dung chương trình, giáo trình lý luận chính trị còn nặng về lý thuyết, trùng lặp, chồng chéo, bất cập. Vẫn còn hiện tượng học tập đối phó, không thực chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân tuy đã đạt kết quả bước đầu, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Ví dụ, Chương trình, giáo trình 5 môn Lý luận chính trị trong các trường đại học đã ban hành từ tháng 7/2019, nhưng đến tháng 7/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo mới in xong bộ sách này phục vụ việc giảng dạy và học tập trong nhà trường.
Thứ tư, công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời. Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của Nhân dân.
Thứ năm, chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận chưa đồng đều, thiếu các chuyên gia đầu ngành, có tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ kế cận, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia đầu ngành; nhiều cơ quan nghiên cứu tiềm lực mỏng. Có một bộ phận cán bộ nghiên cứu chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ. Chưa có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng để phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về lý luận chính trị.
Thứ sáu, công tác hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận giữa Việt Nam với các đảng trên thế giới chưa nhiều, chưa chủ động, tích cực mở rộng trao đổi lý luận với các đảng tham chính, đảng cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển, các đối tác chiến lược của ta. Chất lượng, nội dung, chủ đề, hiệu quả của các hội thảo lý luận với các đảng cộng sản chưa tương xứng, chưa đa dạng.
Nguyên nhân của hạn chế, bất cập là do công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ. Nhận thức của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền ở một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác lý luận còn hạn chế, chưa thực sự coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; coi công tác lý luận là nhiệm vụ của các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy lý luận ở Trung ương; cấp ủy chưa quan tâm tương xứng với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Có những thời điểm, thiếu sự phân công cụ thể cho một cơ quan chỉ đạo, quản lý, chủ trì theo dõi xuyên suốt công tác nghiên cứu lý luận nên dẫn đến việc tổ chức thực hiện công tác lý luận của Đảng còn thiếu thống nhất, đồng bộ, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu về công tác lý luận, cơ quan tư vấn và các cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng ở Trung ương và giữa Trung ương với địa phương.
Quy định, quy chế về quản lý, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận chưa hoàn thiện, nhất là quy định về liên kết, huy động, xã hội hóa nguồn lực. Còn có tình trạng nể nang trong đánh giá nghiệm thu nên chất lượng một số sản phẩm khoa học lý luận được đánh giá chưa thực chất. Chưa thực hiện số hóa đầy đủ các kết quả nghiên cứu lý luận để xây dựng cơ sở dữ liệu chung để tiếp cận thông tin, chia sẻ thông tin trong quá trình thực hiện nghiên cứu các đề tài khác nhau và sử dụng các kết quả nghiên cứu vào việc tham mưu cho cấp ủy, đồng thời để quản lý, tham khảo, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và khắc phục sự trùng lắp trong việc đăng ký các đề tài, đề án nghiên cứu.
Bệnh “hình thức” trong học tập lý luận chính trị, trong học nghị quyết của Đảng chưa được khắc phục triệt để, vẫn còn tình trạng học lý luận chính trị để phục vụ mục đích quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm.
Chưa có cơ chế đặc thù, đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ các nhà nghiên cứu lý luận nói chung, các chuyên gia đầu ngành về lý luận nói riêng. Đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận đông nhưng chưa đủ mạnh, thiếu hụt đội ngũ kế cận để đào tạo, bồi dưỡng trở thành các chuyên gia đầu ngành. Cơ chế thu hút những học sinh giỏi ở bậc phổ thông trung học tham gia đào tạo cử nhân lý luận chính trị tại các học viện, trường đại học và những người giỏi vào công tác tại các cơ quan quản lý, nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị ở Trung ương và địa phương còn yếu, chưa đủ sức hấp dẫn. Đầu tư cơ bản cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận còn quá eo hẹp, chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước.
Đội ngũ chuyên gia đầu ngành nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội, nhân văn ngày càng thiếu hụt, trong khi đó kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu kế cận không có sự đột phá. Chưa quan tâm đúng mức tới tạo nguồn, đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói chung, giảng viên các môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống các trường chính trị tỉnh, trung tâm chính trị cấp huyện nói riêng.
Việc đầu tư xây dựng cơ bản, hiện đại hóa cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, bố trí nguồn lực tài chính cho công tác nghiên cứu lý luận thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu thống nhất trong điều phối, hiệu quả chưa cao. Công tác quản lý khoa học, cơ chế thanh, quyết toán tài chính đối với các chương trình, đề tài, đề án nghiên cứu lý luận chính trị còn nặng “hành chính hóa”, phức tạp, rườm rà, gây tâm lý e ngại, không muốn tổ chức thực hiện nghiên cứu lý luận.
Theo số liệu thống kê trong báo cáo đề án “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” của Ban Tổ chức Trung ương trình Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII, số người làm công tác nghiên cứu khoa học trong cả nước nói chung phát triển tăng nhanh, từ 134.780 người năm 2011 lên 167.746 người năm 2015 (chiếm 24,45%). |
THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, triển khai, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, công tác lý luận của Đảng trong thời gian tới cần tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng về vị trí, vai trò của công tác nghiên cứu lý luận, từ đó tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về công tác nghiên cứu lý luận theo tinh thần của Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất trong định hướng nghiên cứu lý luận phục vụ xây dựng, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; tổng kết thực tiễn những vấn đề lý luận lớn; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu ở địa phương, đơn vị đối với công tác luận.
Nhanh chóng, kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, tổ chức thực hiện về nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận. Tăng cường sự phối hợp hiệu lực, hiệu quả trong công tác lý luận giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan được giao nhiệm vụ “chủ trì, phối hợp đề xuất chủ trương, kế hoạch nghiên cứu, chỉ đạo, quản lý công tác nghiên cứu lý luận” với các cơ quan quản lý, nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn về lý luận để bảo đảm sự tập trung, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, theo dõi, tổng hợp về tình hình và kết quả công tác lý luận trong Đảng, hệ thống chính trị và trên phạm vi cả nước.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác lý luận (nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, giáo dục lý luận, tổng kết thực tiễn bổ sung lý luận) trong đó coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận.
Hai là, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo định hướng của Nghị quyết số 37-NQ/TW trên cơ sở bổ sung các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng về công tác lý luận mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu.
Theo đó, nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn để phục vụ công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp phát triển đất nước; tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định hướng chính sách; giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học và các cơ quan quản lý xã hội; giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương với yêu cầu tổng kết thực tiễn ở cấp địa phương.
Điều chỉnh, bổ sung 4 định hướng của Nghị quyết số 37-NQ/TW thành 6 định hướng nghiên cứu lớn như sau: Thứ nhất, về chủ nghĩa Mác-Lênin: Những vấn đề chung, những giá trị bền vững và những vấn đề bổ sung, phát triển. Thứ hai, về tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tư tưởng triết học Hồ Chí Minh; tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Hồ Chí Minh về xã hội và quản lý xã hội; Hồ Chí Minh về kinh tế và phát triển kinh tế; Hồ Chí Minh về văn hóa và con người; những dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh. Thứ ba, về chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; chủ nghĩa xã hội dân chủ Bắc Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, những bài học kinh nghiệm về phòng chống suy thoái và “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, bạo loạn, lật đổ. Thứ tư, những vấn đề cơ bản, cập nhật về Chủ nghĩa tư bản hiện đại, những bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam. Thứ năm, nghiên cứu các học thuyết, lý thuyết mới, tư duy phát triển mới và những vấn đề thực tiễn mới trong thời đại ngày nay dựa trên quan điểm, nguyên lý, dự báo của chủ nghĩa Mác-Lênin, để làm cho những giá trị của học thuyết này ngày càng sinh động, sâu sắc. Thứ sáu, nghiên cứu luận cứ khoa học phục vụ công tác tham mưu, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, chú trọng cập nhật kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; sớm kết luận những vấn đề lý luận đã chín, đã rõ, phát triển, hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian tới, nhiệm vụ rất lớn và quan trọng đối với công tác lý luận là tổng kết 40 năm đổi mới, 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước để hoàn thiện cơ bản hệ thống lý luận về đường lối đổi mới; tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, trong đó có 20 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), tổng kết 100 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và phát triển để có thể bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; bổ sung, làm phong phú và tiến thêm một bước để hoàn thiện hơn nền tảng tư tưởng của Đảng; nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu các vấn đề lý luận khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn có nhiều ý kiến khác nhau, mạnh dạn cho thí điểm, tổng kết kịp thời để có kết luận nhằm thống nhất về mặt nhận thức.
Bốn là, tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương.
Năm là, thực hiện nghiêm quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân; tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy, tổ chức nghiên cứu lý luận; sớm hoàn thành việc xây dựng quy định trách nhiệm và kỷ luật phát ngôn, nói và viết đối với đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận. Xây dựng cơ chế bảo vệ người có tư duy đổi mới, dám phát biểu những sáng tạo của mình trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận. Xây dựng cơ chế, tạo môi trường thuận lợi để thu hút, tập hợp được đông đảo đội ngũ cộng tác viên, những chuyên gia, những nhà khoa học giỏi, có tâm, có tầm trên tất cả các lĩnh vực của đất nước; mở rộng các hình thức thảo luận, tranh luận, đối thoại lý luận trên tinh thần khoa học, dân chủ, cầu thị; thật sự trân trọng những ý tưởng, những đề xuất lý luận có giá trị, hữu ích cho sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và cho quốc kế dân sinh. Hết sức tránh tư tưởng bảo thủ, cục bộ, võ đoán, quy chụp và cách làm khép kín. Phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận vì lợi ích của đất nước, dân tộc; đồng thời chủ động, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các luận điểm phản động, thù địch, xuyên tạc; bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sáu là, củng cố các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan có chức năng định hướng, quản lý, tham mưu, tư vấn, nghiên cứu, giáo dục về lý luận chính trị; đẩy mạnh cơ chế đặt hàng của cấp ủy, chính quyền, địa phương với các cơ quan nghiên cứu lý luận. Có cơ chế điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các bộ, ngành, địa phương có khả năng làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị về công tác tại các cơ quan nghiên cứu lý luận, hệ thống các trường chính trị và luân chuyển các cán bộ khoa học lý luận chính trị trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, chuyên gia về đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý ở địa phương để bồi dưỡng kiến thức thực tiễn và được trải nghiệm hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Bảy là, đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có chế độ, chính sách thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành. Tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận, tập trung xây dựng đội ngũ kế cận, chuyên gia đầu ngành, nhất là hình thành đội ngũ chuyên gia nghiên cứu sâu trên một số lĩnh vực lý luận chính trị, có cơ chế riêng, có nguồn lực riêng để hoạt động. Đẩy mạnh thực hiện kế hoạch thu hút cán bộ lý luận có trình độ chuyên môn cao, có uy tín khoa học, tâm huyết với nghề, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, tạo nguồn đội ngũ chuyên gia lý luận. Cấp ủy các đảng bộ trực thuộc Trung ương đầu tư xây dựng lực lượng cán bộ nghiên cứu lý luận ở các địa phương, bộ, ngành đáp ứng yêu cầu tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận trên địa bàn. Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên; kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Hội nghị tổng kết Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 - 2021. Ảnh: TTXVN
Song song với đó, cần chú trọng một số nhiệm vụ, giải pháp khác như: Nâng cao hiệu quả tổ chức nghiên cứu, chắt lọc, ứng dụng kết quả nghiên cứu lý luận. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung phục vụ công tác nghiên cứu, thông tin, giảng dạy, ứng dụng kết quả khoa học lý luận.
Mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi lý luận với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền, đảng tham chính trên thế giới. Từng bước đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng ta với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu quả. Nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức các hội thảo khoa học về lý luận thường niên với các đảng cộng sản.
Nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 14-KH/TW của Ban Bí thư.
Tạo cơ chế, môi trường thuận lợi và bố trí nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu lý luận. Đầu tư nguồn lực tài chính thỏa đáng cho công tác lý luận; xây dựng quy định về quy trình đánh giá kết quả nghiên cứu và cơ chế tài chính đặc thù nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu khoa học lý luận có chất lượng, hiệu quả, ngày càng gắn kết với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong tình hình mới.
Công tác lý luận cần tập trung nghiên cứu một số nội dung cụ thể đã được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng như sau: Một là, tiếp tục nghiên cứu nhằm đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường... Nghiên cứu hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, nghiên cứu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Ba là, nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Nghiên cứu, dự báo đúng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Nghiên cứu quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh. Bốn là, nghiên cứu phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Năm là, tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ. Nghiên cứu trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Sáu là, nghiên cứu nhằm tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bảy là, tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội. Tám là, nghiên cứu nhằm tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể, công khai để cán bộ, đảng viên và Nhân dân biết, giám sát việc thực hiện. Nghiên cứu tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày./. |
Nguồn: https://tuyengiao.vn