KỶ NIỆM 135 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890 - 19/5/2025)
Tin tức trong tỉnh
Đăng ngày: 20/01/2020 - Lượt xem: 91
Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Người chiến sỹ cộng sản xuất sắc, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên

Nhân dịp Tọa đàm “Học tập nhân cách và bản lĩnh kiên định, sáng tạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên”, Trang Thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên trân trọng đăng tải tham luận của đồng chí Trần Thị Thanh Thủy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.

Hưng Yên – vùng đất “địa linh, nhân kiệt”, nơi sản sinh ra nhiều nhân tài kiệt xuất, có công với dân tộc: 228 khoa bảng, trạng nguyên, tiến sỹ, hương cống thời phong kiến. Với 4/21 làng có 10 tiến sỹ, Hưng Yên đứng thứ 3 trên cả nước về số làng có 10 tiến sỹ, 3 làng có 7, 8 tiến sỹ trong đó làng Liêu Xá (Yên Mỹ) là làng được ghi danh có 8 tiến sỹ. Không chỉ có vậy, nơi đây còn có những người con được lưu danh, ca tụng trong nền văn hóa và lịch sử dân tộc, ở nhiều phương diện: Y học có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; khoa học có Phạm Huy Thông, Nguyễn Công Tiễu; văn học có nữ sỹ Đoàn Thị Điểm, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng; sân khấu chèo có Nguyễn Đình Nghị; mỹ thuật có Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên. Trong lĩnh vực chính trị, nổi bật là đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người mở đường và có công lớn trong công cuộc đổi mới đất nước - người con ưu tú của quê hương Hưng Yên.
 
* Đồng chí Nguyễn Văn Linh với cách mạng Việt Nam
Đồng chí Nguyễn Văn Linh tên khai sinh là Nguyễn Văn Cúc (tức Mười Cúc), sinh ngày 01/7/1915, quê gốc thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Xuất thân từ một gia đình nghèo, giác ngộ lý tưởng cách mạng từ rất sớm, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng, đấu tranh chống thực dân, đế quốc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Năm 1929, khi mới 14 tuổi, Mười Cúc đã tham gia hoạt động yêu nước trong đội ngũ “học sinh cứu quốc đoàn” do Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Hải Phòng lãnh đạo. Ngày 1-5-1930, trong khi rải truyền đơn chống đế quốc, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án chung thân đầy ra Côn Đảo. 
Năm 1936, với thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp đã gây sức ép buộc thực dân Pháp ở Đông Dương phải có những thay đổi đường lối cai trị, đồng chí được trả tự do, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; với tri thức giác ngộ sâu sắc, chí khí kiên cường và lòng hăng hái của tuổi trẻ, đồng chí đã tham gia hoạt động sôi nổi ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Phong trào cách mạng ở Hải Phòng từ năm 1936 đến năm 1939 có sự đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh, đặc biệt từ năm 1938 với tư cách phụ trách Thành ủy Hải Phòng. Năm 1939, đồng chí được điều động vào Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố và tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm 1941, đồng chí bị địch bắt xử tù 5 năm đày ra Côn Đảo lần thứ hai. Sự tàn bạo khốc liệt của nhà tù đế quốc đã không khuất phục được ý chí sắt đá của người chiến sỹ cộng sản, trái lại, nó đã trở thành trường học tôi luyện đồng chí Nguyễn Văn Linh trở thành một chiến sỹ cách mạng kiên trung, dày dạn kinh nghiệm và đầy bản lĩnh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được Đảng đón về và giao nhiệm vụ công tác tại miền Nam, tham gia Xứ ủy Nam Bộ trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trải qua nhiều cương vị khác nhau, trong suốt 30 năm chiến tranh cách mạng, đặc biệt là ở thành phố mang tên Bác: Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn; Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định; quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ; Phó Bí Trung ương Cục, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí luôn kiên định đường lối cách mạng của Đảng, tận tâm, tận lực với Đảng, đem hết trí tuệ, sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng lên trên lợi ích cá nhân, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng. Đảng ta đã đánh giá: “Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc… với trách nhiệm là Bí thư Trung ương Cục, đồng chí đã chủ trì và cùng với các đồng chí khác lãnh đạo phong trào cách mạng miền Nam vào thời điểm gay go nhất và cũng oanh liệt nhất, ghi lại những dấu ấn không bao giờ phai mờ về cuộc Đồng khởi và cuộc kháng chiến chống xâm lược… Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thuộc về toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó có công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Đến Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh được giao trọng trách Tổng Bí thư của Đảng – người cầm lái công cuộc đổi mới trong bối cảnh hết sức khó khăn: đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát phi mã; đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn; công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào bế tắc, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang đứng trước nguy cơ tan rã. 
Trong hoàn cảnh ấy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, một mặt khẳng định kiên trì định hướng chủ nghĩa xã hội, đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới; mặt khác chủ động phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, tìm tòi những cơ chế, chính sách, biện pháp tích cực giải quyết những đòi hỏi cấp bách của đời sống xã hội, nhằm giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự xã hội. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội đã quyết định đường lối đổi mới, mở ra thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới, những quan điểm, cơ chế và chính sách mới. Khi triển khai thực hiện, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vừa chú trọng thực hiện những quan điểm cơ bản có ý nghĩa chiến lược, vừa quan tâm những việc cần làm ngay, kết hợp chặt chẽ nói và làm. Những bài của đồng chí trên báo Nhân Dân ký tên “NVL” có ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc, kịp thời khắc phục bệnh quan liêu, sự trì trệ, vô cảm trong lãnh đạo, quản lý ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, tạo nên phong cách công tác mới, phê phán sự im lặng đáng sợ.
Với bản lĩnh và sự nhạy cảm về chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và tập thể lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đề ra những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3-1989) bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới không đi chệch hướng. Đổi mới nhưng không xa rời con đường, mục tiêu xã hội chủ nghĩa - con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn. Kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin - nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phê phán khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, âm mưu đa nguyên, đa đảng. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ phải đi đôi với tập trung với kỷ luật, pháp luật, với ý thức, trách nhiệm công dân, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đặt nền móng cho Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã trân trọng đánh giá: “Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội VI, với cương vị là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng tập thể lãnh đạo nhạy bén, chủ động, sáng tạo, khôn khéo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những bước hiểm nghèo của thời kỳ xảy ra những biến động to lớn trên thế giới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới và thu được những thành tựu rất quan trọng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng- an ninh, cải thiện đời sống nhân dân”.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), đồng chí thôi giữ chức Tổng Bí thư và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, khoá VIII. Trên cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, theo sát từng diễn biến của cách mạng Việt Nam, tham gia nhiều ý kiến quan trọng với Đảng về những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước.
Với những công lao và thành tích to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác. 
 
*Đồng chí Nguyễn Văn Linh với quê hương Hưng Yên
Đồng chí Nguyễn Văn Linh sinh ra ở Hà Nội, tham gia cách mạng và trưởng thành từ Hải Phòng, phần lớn cuộc đời hoạt động cách mạng gắn bó với đồng bào và chiến sỹ miền Nam. Do nhiệm vụ cách mạng nên ít có dịp về thăm quê hương Hưng Yên, nhưng đồng chí Nguyễn Văn Linh thường xuyên quan tâm theo dõi từng bước phát triển của quê hương. Trong những năm tháng xa quê, đồng chí có sáu lần về thăm và làm việc, ba lần viết thư, gửi điện về quê hương; đồng chí luôn căn dặn, động viên và mong muốn Đảng bộ và nhân dân quê nhà phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường đoàn kết, làm tốt công tác xây dựng Đảng, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là chăm lo các đối tượng chính sách. 
Cuối năm 1967, trong lần ra Bắc báo cáo với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam, đồng chí đã tranh thủ về thăm quê hương và nhận họ hàng sau nhiều năm xa cách. Năm 1977, đồng chí về dự Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Văn Yên (huyện hợp nhất Văn Giang và Yên Mỹ). Chiều ngày 27-1-1987, đồng chí về thăm xã Giai Phạm, gặp gỡ, trò chuyện, động viên, gợi mở hướng phát triển cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Năm 1993, đồng chí cùng phu nhân về thăm thị xã Hưng Yên. Năm 1994, sau khi thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh Hải Hưng (tỉnh hợp nhất của Hải Dương và Hưng Yên), huyện Mỹ Văn (huyện hợp nhất của Mỹ Hào, Yên Mỹ, Văn Lâm), đồng chí đã về thăm xã Giai Phạm và dự Lễ khởi công xây dựng Trường Tiểu học của xã. Năm 1995, nhân dịp Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Giai Phạm lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 1995- 2000, do bận công việc, đồng chí không về dự được và đã gửi thư động viên nhắc nhở Đảng bộ và nhân dân xã Giai Phạm đoàn kết, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Năm 1996, sau khi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đồng chí cùng gia đình về thăm xã Giai Phạm, thăm và làm việc với lãnh đạo huyện Mỹ Văn; đây là lần cuối cùng đồng chí về thăm quê. Ngày 14-3-1997, đồng chí gửi thư cho xã Giai Phạm động viên Đảng bộ và nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời đồng chí khen ngợi thầy và trò Trường Tiểu học và Trường Trung học cơ sở mang tên đồng chí đã giữ vững danh hiệu tiên tiến nhiều năm liền.
Sau 28 năm sáp nhập, ngày 1-1-1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV (tháng 11-1997), Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên vinh dự nhận điện chúc mừng của đồng chí Nguyễn Văn Linh, đồng chí viết: "Vì lý do sức khoẻ, đáng tiếc, tôi không thể về dự Đại hội đại biểu của tỉnh được. Xin gửi lời chúc mừng Đại hội đạt kết quả tốt đẹp. Tỉnh uỷ sẽ xây dựng mọi mặt của tỉnh nhà thật tốt, đưa Hưng Yên trở thành một tỉnh mạnh của toàn quốc Việt Nam"... Nội dung bức điện vừa thể hiện lòng mong muốn, vừa là lời căn dặn của đồng chí với quê hương, thôi thúc Đảng bộ, nhân dân Hưng Yên không ngừng phấn đấu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Hưng Yên trở thành tỉnh mạnh trong cả nước. 
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và lời di nguyện của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, đồng thời phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên đã đoàn kết nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách và lập được nhiều thành tích trên các lĩnh vực trong mỗi giai đoạn lịch sử, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, Hưng Yên đã xây dựng được một nền tảng kinh tế-xã hội tương đối đồng bộ; kinh tế tăng trưởng khá nhanh và cao hơn bình quân chung của cả nước, giá trị sản xuất công nghiệp và thu ngân sách tăng trên 100 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 10 lần so với khi tái lập tỉnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá. Năm 1996, nông nghiệp chiếm tỷ trọng tới 60%, công nghiệp và dịch vụ 40%. Đến năm 2019, công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng 62,15% - nông nghiệp, thủy sản chiếm 8,44% - thương mại, dịch vụ chiếm 29,41%; tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) đạt 74,57 triệu đồng; Kim ngạch xuất khẩu đạt 4.750 triệu USD; Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 16.000 tỷ đồng. Có 145/145 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 4/10 huyện, thành phố được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 37,63%. 
Hạ tầng các khu công nghiệp được đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Toàn tỉnh hiện có 10 KCN đã được chấp thuận đưa vào quy hoạch các KCN của tỉnh, có 5 KCN đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng trên 80%. Hoạt động thu hút đầu tư phát triển cụm công nghiệp tiếp tục được quan tâm. Công tác quản lý quy hoạch kiến trúc, phát triển đô thị được tăng cường và đẩy mạnh. Thị xã Mỹ Hào được thành lập. 5 xã được công nhận đạt tiêu chuẩn đô thị loại V. 
Công tác xúc tiến đầu tư được triển khai tích cực. Có 1.064 dự án đi vào hoạt động. Hoạt động quản lý đất đai được tăng cường. Đang tích cực xây dựng hoàn thiện Bảng giá đất giai đoạn 2020 - 2024 tỉnh Hưng Yên; Lập kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh. Cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Đã đưa Trung tâm phục vụ hành chính công đi vào hoạt động từ tháng 9-2019 với 1.590 thủ tục hành chính được tiếp nhận và xử lý chuyên nghiệp. Triển khai đồng bộ, quyết liệt Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. 
Văn hóa có nhiều tiến bộ; các phong trào xây dựng đời sống văn hoá được phát động và đạt kết quả; nhiều di tích lịch sử- văn hoá được trùng tu, tôn tạo. 
Giáo dục-đào tạo được mở rộng về quy mô, chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Hưng Yên là một trong những tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở sớm của cả nước; chất lượng đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường lớp ở các bậc học được quan tâm đầu tư; 383 trường đạt chuẩn quốc gia; Khu Đại học Phố Hiến đã được quy hoạch và đang triển khai thu hút các trường đại học vào đầu tư. 
Sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm đầu tư phát triển, hoàn thiện hệ thống và mạng lưới y tế ở 3 tuyến tỉnh, huyện, xã; 100% y tế cấp xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia; đội ngũ y, bác sỹ ngày càng được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng, cơ bản đáp ứng tốt yêu cầu khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên duy trì dưới 1%. 
Cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với nước và các đối tượng bảo trợ xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, nâng cao. 
Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tuần tra canh gác, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác huấn luyện được triển khai theo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, an toàn tuyệt đối. Quân số tham gia huấn luyện lực lượng thường trực đạt 97,3%, dân quân tự vệ đạt 90,6%. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội được đẩy mạnh. 
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được củng cố, tăng cường; hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên; việc nghiên cứu quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết Trung ương đạt được những kết quả thiết thực; xử lý và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vi phạm các công trình thủy lợi và ô nhiễm môi trường, góp phần quan trọng thống nhất nhận thức và hành động ở các cấp, các ngành, trong cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận trong nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở; có tác động tích cực tới tư tưởng, tình cảm và niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Với những cống hiến lớn lao suốt cuộc đời cho đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã dành tình cảm, sự tri ân đặc biệt đối với đồng chí Nguyễn Văn Linh. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tỉnh đã xây dựng Khu tưởng niệm đồng chí Nguyễn Văn Linh (năm 2004), Tượng đài Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (năm 2015). Đặt tên đồng chí gắn với những công trình quan trọng, như: Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh; Quảng trường Nguyễn Văn Linh và tuyến đường trục chính của thành phố Hưng Yên mang tên đường Nguyễn Văn Linh... 
Để Hưng Yên có được những kết quả khởi sắc như ngày nay, đó là thành quả của hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, gắn liền với công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên tiếp tục phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, những thành quả đã đạt được, khắc phục khó khăn, phát động các phong trào thi đua yêu nước để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, quyết tâm xây dựng Hưng Yên thành tỉnh giàu mạnh, văn minh như di nguyện của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - Người chiến sỹ cộng sản xuất sắc, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên.
Tin liên quan