CHÀO MỪNG THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LẦN THỨ I, NHIỆM KỲ 2025 - 2030, HƯỚNG TỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIV CỦA ĐẢNG
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 18/12/2017 - Lượt xem: 127
Nhân tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2017: Chú trọng truyền thống văn hóa trong việc tuyên truyền về bình đẳng giới

Bình đẳng giới đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, với mục tiêu là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội bình đẳng giữa nam và nữ trong phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực xã hội và đời sống gia đình, năm 2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 11 ban hành. Để các công ước quốc tế và Luật Bình đẳng giới trở thành một thói quen ứng xử, một tiềm thức trong mỗi cá nhân, các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò rất quan trọng. Việc thực hiện tuyên truyền bình đẳng giới trên các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần tích cực vào việc phổ biến các hiệp ước quốc tế về bảo vệ phụ nữ, các chỉ thị, nghị quyết và luật định về bình đẳng giới,  nâng cao nhận thức về phẩm giá, thân phận của người phụ nữ, cải thiện tình trạng bạo hành phụ nữ ở một số gia đình trong xã hội nước ta. Đồng thời, qua báo chí, dư luận xã hội cũng nhận thức được các phẩm chất cao quý của người phụ nữ, các tấm gương điển hình là nữ giới... Song việc truyền thông về bình đẳng giới ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam vẫn chưa trở thành một việc làm thường xuyên mà nhiều lúc vẫn chạy theo phong trào. Do đó, người dân chưa thấy hết tầm quan trọng của bình đẳng giới trong một xã hội văn minh. Bên cạnh đó, một thời gian không xa trước đây, bình đẳng giới là một khái niệm mà người ta hay nhắc đến với ý nghĩa là cần bài xích tệ nạn trọng nam khinh nữ, để đề cao vai trò của phụ nữ trong cuộc sống. Ám ảnh vì khái niệm như thế, nên hầu như trong việc điều chỉnh dư luận xã hội, người ta thường nhắc đến những “tàn dư của xã hội phong kiến” với những hành vi ngược đãi phụ nữ và đòi hỏi “nam nữ bình quyền” theo các tiêu chí được phổ quát từ các nước châu Âu... Chúng ta chỉ tuyên truyền theo hướng bài xích xã hội phong kiến, chứ rất ít khi nói đến những giá trị to lớn của văn hóa truyền thống trong việc tôn trọng phụ nữ, tức là “bình đẳng giới” theo cách nói hiện nay. Và, hầu như tất cả các phương tiện thông tin đại chúng khi nói về bình đẳng giới đều lấy các giá trị của văn hóa phương Tây với các khái niệm về thân phận con người, về dân chủ, bình đẳng, bác ái... ra làm thước đo để đối sánh với các “tàn dư phong kiến”. Bản sắc văn hoá của dân tộc là trọng mẫu, trọng tình của người Việt nhiều lúc bị bỏ quên không nhắc đến trong việc tuyên truyền. Tất nhiên quan niệm ấy cũng đến với người nghe, người đọc nhưng không phải sự tự nguyện, không đi được vào tâm hồn họ. Chính vì thế, hiệu quả tuyên truyền dù cao nhưng không sâu, không trở thành các giá trị văn hóa đương đại để lắng đọng thành tiềm thức cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, tổ chức hay toàn xã hội. 

Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng, các nước với các nước có nguồn gốc là dân du mục (châu Âu và bắc Á), do truyền thống săn bắn, chăn nuôi là chính nên rất coi trọng sức mạnh của người đàn ông. Chính vì thế, suốt từ trung cổ đến giai đoạn đầu của chế độ tư bản, thái độ trọng nam khinh nữ vẫn trị vì trong xã hội của họ. Có thể chứng minh điều đó khi tìm hiểu lịch sử Cộng hòa Pháp (một nước vẫn được coi là điển hình của thái độ tôn trọng phụ nữ bây giờ). Sau cách mạng 1789, người nông dân đã được chia ruộng của các lãnh chúa, nhưng việc thừa kế trong gia đình lại vô cùng bất công: chỉ có người con trai đầu được hưởng toàn bộ ruộng đất của cha mẹ, các con còn lại phải lên thành phố tìm việc. Việc trọng nam khinh nữ ấy còn biểu hiện ở một nước kề cận chúng ta, nhưng có nguồn gốc là du mục, ấy là nước Trung Hoa cổ, chính tại đây, đã nảy sinh ra các tư tưởng “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” hay “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” mà sau này, các triều đại phong kiến tập quyền của Việt Nam bị ảnh hưởng không ít.

Ở các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam với nền nông nghiệp lúa nước thì trái lại, phụ nữ rất được coi trọng bởi các đức tính tỉ mỉ, cẩn thận, cần cù thích hợp với công việc này. Điều đó đặc biệt đúng với Việt Nam. Người phụ nữ trong làng/xã nước ta xưa kia có thân phận rất rõ ràng. Họ có quyền, có vai trò to lớn trong xã hội, nhiều khi còn hơn cả nam giới. Giáo sư Từ Chi trong “Tìm hiểu văn hóa và tộc người” đã cho rằng, phụ nữ Việt Nam có “địa vị oái oăm”, có vẻ như “thấp” song thực ra thì rất “cao”. Không phải là vô lý khi một nhà nghiên cứu cho rằng, hội hè ở Việt Nam một phần chính diễn ra là vì phụ nữ. Thật khó có thể tưởng tượng ra một hội làng, hội tổng nào lại thiếu dáng vóc của các cô, các chị. Phụ nữ Việt Nam còn là người nắm tay hòm chìa khóa trong gia đình, không có phụ nữ, đàn ông chỉ như “giỏ không hom” mà thôi. Nếu như đình giành cho nam giới thì chùa lại hoàn toàn của nữ giới. Bên cạnh đó, bến nước, giếng làng cũng là “thế giới” của phụ nữ, con trai, đàn ông ra những nơi ấy, hầu như chỉ để tán tỉnh, trêu ghẹo phụ nữ mà thôi. Thương trường, chợ búa phần lớn cũng là việc của phụ nữ. Nuôi dạy con cũng là trách nhiệm phụ nữ, người ta nói “con dại cái mang” chứ không ai nói con làm cha chịu cả. Nếu như theo Nho giáo, ông vua là cao nhất (quân- sư- phụ) thì ở ta “nhất vợ nhì giời”. Cái gì to tát gọi là Cái (chứ không phải là “to tổ bố” như bây giờ): sông Cái, đường cái, thúng cái, ngón tay cái, cột cái... Sinh con gái đầu cũng được cho là may mắn: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”. Quan hệ xã hội trong một gia đình, nhất là quan hệ với họ hàng, làng xóm là do người phụ nữ tạo dựng, còn nam giới chỉ là đại diện bên ngoài mà thôi. Gia đình người chồng có được họ hàng kính nể, yêu thương hay không là do bà vợ quyết định (vợ dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng)... Cả nước ta tôn thờ một bà mẹ, ấy là tổ mẫu Âu Cơ, vua Hùng là một trong những người con trai đi theo mẹ (chứ không phải theo cha) về núi. Trong lịch sử chúng ta có các vị vua nữ tài ba như Bà Trưng, Bà Triệu, có các Thái hậu Dương Vân Nga, Nguyên phi Ỷ Lan quyền biến, có hàng trăm nữ tướng tài danh, có những đội quân tóc dài oai hùng như những nghĩa binh của Hai Bà Trưng hay của chị Nguyễn Thị Định sau này. Điều đó là do vai trò của người phụ nữ trong xã hội nên đã hình thành truyền thống dân tộc “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Từ vai trò người phụ nữ trong xã hội, trong dân gian đã hình thành tục thờ MẪU với một “thiên đình” toàn nữ giới: Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng ngàn... cùng các cô, các bà chúa. Tổ chức văn hóa thế giới UNESCO đã công nhận thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, ý nghĩa của việc tôn vinh này lại như đại diện Việt Nam tại Liên hiệp quốc, Đại sứ Phạm Sanh Châu nói, đó là: “Lần đầu tiên UNESCO đã tôn vinh người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh Thánh Mẫu”…   

Trong các triều đại phong kiến, mặc dù ảnh hưởng khá nặng nề của Nho giáo Trung Hoa, nhưng những giá trị thuộc về bản sắc văn hóa có liên quan đến người phụ nữ vẫn được gìn giữ, duy trì trong quan hệ xã hội. Bộ luật Hồng Đức (nhà Lê) đảm bảo cho con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản bình đẳng như con trai. Con gái, cháu gái có quyền hương khói cho cha mẹ trong trường hợp nhà không có con trai, cháu trai (điều 391, 395), nếu con trai trưởng còn nhỏ thì bà quả phụ có quyền theo con mà tế tự tổ tiên. Trong hôn nhân, luật dành cho phụ nữ có quyền từ hôn nếu thấy vị hôn phu chẳng may bị ác tật, phạm tội hay phá sản (điều 322). Người vợ có quyền bỏ chồng nếu trong 5 tháng người chồng bỏ rơi vợ không đi lại (điều 308). Khi ly hôn, tài sản của ai có trước khi kết hôn được trả về cho người đó, còn tài sản chung do hai vợ chồng làm nên thì chia đều cho mỗi người một nửa.

Sau này, vào thời Nguyễn, luật Gia Long sao phỏng luật Trung Hoa nhiều hơn luật Hồng Đức, nhưng vai trò của người phụ nữ vẫn rất được chú trọng. Chẳng hạn, trong luật có điều khoản về “thất xuất” nêu 7 lý do người đàn ông có thể bỏ vợ, nhưng lại có “tam bất khả xuất” là 3 trường hợp người đàn ông không có quyền bỏ vợ để hạn chế bớt thiệt thòi cho người phụ nữ gồm: đã để tang cho cha mẹ chồng, đã làm cho gia đình chồng trở nên giàu có, ngoài nhà chồng không còn nơi nào khác có thể nương tựa. Luật Gia Long cũng cấm chồng bán vợ, bắt vợ làm thuê hay bắt vợ chính xuống làm nàng hầu. Điều 17 còn cấm đàn ông có lời sàm sỡ, thô tục để xúc phạm phụ nữ, nếu người phụ nữ vì bị sàm sỡ mà tự tử thì người đàn ông đó sẽ bị xử giảo giam hậu.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhiều giá trị nhân văn của nền văn hóa dân tộc tiếp tục có điều kiện phát triển. Vai trò, thân phận của người phụ nữ trong xã hội ngày càng có các điều kiện để phát huy. Đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng để chúng ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến thần thánh. Nếu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Hưng Yên chúng ta có đội nữ du kích Hoàng Ngân oai hùng lừng danh, thì ở cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ở Bến Tre có đội quân tóc dài của chị Nguyễn Thị Định... Rồi chúng ta có hàng vạn nữ dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong tham gia xung trận, có hẳn phong trào “phụ nữ ba đảm đang” như một đối trọng của “thanh niên ba sẵn sàng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thành”. Đến hôm nay, với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tỉ lệ  phụ nữ tham gia Quốc hội cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới. Đây là bằng chứng chứng minh giá trị của nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc” và hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển.

Thế thì, thái độ trọng nam khinh nữ mà người ta vẫn thường nói là lộng hành trong xã hội phong kiến do đâu? Theo tôi, trước tiên là do ảnh hưởng của những mặt tiêu cực của Nho giáo. Trong các trước tác của mình, ngoài những giá trị to lớn không thể phủ nhận về tư tưởng, về văn hóa, Khổng Tử đã có các thông điệp coi thường phụ nữ. “Luận ngữ” viết: “Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó đối xử. Nếu gần họ thì họ xấc xược. Nếu xa họ thì họ oán”... và “tam tòng, tứ đức” cũng xuất phát từ đấy. Vào Việt Nam thì mặt tiêu cực của Nho học tuy không lấn át được truyền thống tôn trọng phụ nữ, nhưng cũng ảnh hưởng ít nhiều đến thiết chế xã hội. Đặc biệt, là đối với  những người từng theo Nho học (các thầy đồ, thư lại, khoa bảng) là lực lượng ra sức, đề cao, cổ súy cho những giáo lý “tam tòng, tứ đức”. Và, có thể một phần nào đó, do bị ức chế bởi tâm lý tự ty của tàn dư chế độ mẫu hệ, vì “tự ty quá thành tự tôn” (chữ dùng của cố giáo sư Trần Quốc Vượng) nên cánh đàn ông trong xã hội phong kiến lấy đó làm điểm tựa, làm “phương pháp luận” để quay lại kiềm chế phụ nữ. Do đó, các lề luật, các lệ làng, hương ước, gia pháp... của một số làng, xã, một số dòng họ bị ảnh hưởng. Nhân phẩm của người phụ nữ ngoài làng/xã bị hạ thấp, bị coi khinh: họ không có tên trong sổ đinh, không được tham gia tế tự, không được vào trong đình, không được tham gia việc làng v.v.... Các vấn đề về bất bình đẳng giới trong xã hội xuất phát từ đấy.

Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, trong quan hệ của đại đa số gia đình Việt Nam, vẫn tồn tại “chân lý”: “lệnh ông không bằng cồng bà”. Từ thực tế đó, chúng tôi khẳng định rằng, bản sắc văn hóa trọng tình của người Việt đã đề cao vị trí, vai trò phụ nữ trong xã hội.

          Từ những phân tích trên, tôi cho rằng, tuyên truyền bình đẳng giới trên các phương tiện thông tin đại chúng phải gắn chặt chẽ với nêu cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tập trung vào tuyên truyền về truyền thống người phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Cùng với việc chỉ rõ vai trò, vị trí, khả năng của người phụ nữ trong gia đình thì việc nêu bật các đóng góp của họ đối với cộng đồng cũng làm cho toàn xã hội hiểu, khâm phục và có thái độ trọng thị hơn đối với phụ nữ. Bên cạnh đó, cần tạo dư luận xã hội để góp phần xây dựng đề án, chương trình bồi dưỡng nguồn lực lạo động từ giới nữ để họ xác lập vị thế bình đẳng với nam giới. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ người phụ nữ cũng góp phần làm bình đẳng giới trong xã hội. Chúng ta tuyên truyền về các công ước quốc tế bảo vệ trẻ em, phụ nữ, tuyên truyền về Luật Bình đẳng giới đồng thời phát hiện những vấn đề bất cập trong thực tiễn thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, tạo dư luận xã hội để kiến nghị điều chỉnh cho phù hợp. Báo chí, truyền thông cũng cần phát hiện những hành vi bạo hành phụ nữ mới xuất hiện thời kinh tế thị trường, soi chiếu với các giá trị văn hóa truyền thống để lên án và góp phần khái quát những thực tế đó tạo thành vấn đề lý luận, góp phần hoạch định những giải pháp bắt kịp diễn biến của cuộc sống. Cần tìm ra những nét đẹp văn hóa của việc làm, hành động mang tính điển hình này như một sự kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc. Cần xây dựng các hình tượng văn học- nghệ thuật về bình đẳng giới. Trong quá khứ, chúng ta đã xây dựng nhiều hình tượng văn học, nghệ thuật về những tấm gương trung liệt của nữ giới như Bà Trưng, Bà Triệu... Đối với tỉnh Hưng Yên, việc đưa các tấm gương anh hùng liệt nữ của tỉnh thành nhân vật văn học nghệ thuật đã có tác dụng tốt để cổ vũ, động viên chị em phụ nữ. Đó là những nhân vật như Cúc Hoa (trong sự tích Tống Trân- Cúc Hoa), anh hùng liệt sĩ Bùi Thị Cúc, các nữ du kích Hoàng Ngân... qua đó quy chiếu tới các giá trị văn hóa truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Điều đó không những giúp cho chị em phụ nữ tự hào về giới của mình, mà còn góp phần tăng thêm sự trân trọng trong cái nhìn của anh em nam giới đối với phụ nữ. Bằng cách tuyên truyền theo hướng coi việc thực hiện Luật Bình đẳng giới là việc làm kế tục truyền thống trong thời đại mới. Việc tăng cường vai trò của phụ nữ trong các cấp ủy đảng, cơ quan, ban ngành ở mọi cấp phải được coi là sự kế thừa truyền thống (chứ không nên cho là một sự đổi mới như hiện nay vẫn tuyên truyền). Sự phân biệt đối xử về giới phải bị coi là là việc làm trái với đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục.

Chú trọng văn hóa truyền thống trong việc tuyên truyền bình đẳng giới qua các phương tiện thông tin đại chúng sẽ góp phần định hướng dư luận xã hội để việc thực hiện bình đẳng giới trở thành việc làm mang tính tự nguyện, tự giác và mang những nét đẹp văn hóa. Chúng ta tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng một xã hội nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

PMH

--------

Tài liệu tham khảo:

- Luật Bình đẳng giới, Quốc hội khóa 11, ngày 29/11/2006

- Trần Quốc Vượng: “Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm”, NXB Văn học, Hà Nội, 2003

- Trần Ngọc Thêm: “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, NXB Tổng hợp T.P Hồ Chí Minh, 2004

 

Tin liên quan