KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 04/01/2024 - Lượt xem: 777
Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội trong giai đoạn mới

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết mới về chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó khẳng định chính sách phát triển xã hội là sự thể hiện tập trung nhất của chính sách đối với con người, vì con người, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Ảnh minh họa.
TƯ DUY VÀ TIẾP CẬN QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, mọi nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Trong đó, chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện và phương thức thực hiện chức năng giai cấp của nhà nước.
Trên con đường đi lên CNXH ở nước ta, chức năng xã hội của nhà nước cần hoạch định, tổ chức thực thi và quản trị các hoạt động chính sách có hiệu quả nhằm đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, an ninh con người và cao nhất là sự giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Thấm nhuần tinh thần này, ngay từ những ngày đầu của công cuộc Đổi mới, Đại hội VI của Đảng ta đã khẳng định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”.
Đại hội VIII năm 1996 định hướng cho phát triển xã hội gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Đại hội cũng khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện chính sách xã hội, đồng thời khuyến khích mỗi người dân, doanh nghiệp, tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), mục tiêu và nội dung của chính sách xã hội được nêu rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì  con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Điều này cho thấy, Đảng ta đã nhận thức ngày càng cụ thể và đầy đủ hơn tầm quan trọng của chính sách xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm mục tiêu phát triển xã hội, đặc biệt, chính sách xã hội phải quan tâm tới an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và đây cũng là nội dung, mục tiêu của quản lý phát triển xã hội.
Tại Đại hội XII năm 2016, lần đầu tiên khái niệm quản lý phát triển xã hội được đưa vào Văn kiện. Đảng khẳng định: Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội(2). Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng CNXH, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, kích thích tính năng động, sáng tạo của mọi thành viên xã hội, huy động các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Muốn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thì phải bảo đảm hiệu quả quản lý phát triển xã hội. Vì vậy, cần: “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”(3). Về nguyên tắc, phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách; còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội. Về mục đích, quản lý phát triển xã hội cần bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; nhân dân là chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng, bảo vệ; bảo đảm môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
Đại hội XIII đã khẳng định quan điểm phát triển xã hội bền vững như một trong ba trụ cột phát triển bền vững là Kinh tế - Xã hội - Môi trường. Đồng thời sự phát triển xã hội hướng đến mục tiêu rõ ràng và nhất quán là tiến bộ và công bằng xã hội. Các thành quả của phát triển xã hội phải được bảo đảm vững chắc bằng các thành quả về phát triển kinh tế. Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2021-2025, Đảng ta đã khẳng định: “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn cụ thể dẫn đến xung đột xã hội. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững”(4).
Một yêu cầu quan trọng cấp thiết được đặt ra như tiền đề cho việc hoạch định chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội theo văn kiện Đại hội XIII là: “Trên cơ sở dự báo đúng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”(5). Như vậy, ở tầm chiến lược trung và dài hạn, các vấn đề về phát triển đất nước nói chung và phát triển xã hội nói riêng không thể tách rời ảnh hưởng và tác động của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội nước ta trong nhiều lĩnh vực.
Trong những năm qua, cùng với sự gia tăng về chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có những quyết tâm và nỗ lực đảm bảo công bằng xã hội trong hưởng thụ thành tựu phát triển giữa các nhóm dân cư và các vùng miền.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hưởng XHCN đã diễn ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội - một tiến trình mà quốc gia nào cũng phải trải qua trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy nhiên, bằng các chính sách lao động - việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp nhằm hỗ trợ người lao động trước các rủi ro của thị trường, các chính sách miễn giảm đóng góp cho người có nghèo và thu nhập thấp, nước ta đã có những thành công nhất định trong việc kiểm soát tốc độ gia tăng khoảng cách giàu nghèo, giữ hệ số GINI (hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) ở mức dưới 0,4(6).
Ở một trình độ phát triển cao hơn, khi đất nước ta đã vượt qua trạng thái của một nước nghèo để trở thành nước có thu nhập trung bình, quản lý phát triển xã hội không chỉ dừng lại ở xóa đói giảm nghèo, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản mang tính phổ quát cho người dân, mà hơn thế, Nhà nước tạo điều kiện cho mỗi người dân được thụ hưởng thành tựu phát triển chung và kiến tạo cơ hội chính đáng để phát triển theo mong muốn và năng lực của bản thân. Trước những yêu cầu phát triển mới, Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm chủ trương “Dân thụ hưởng” vào nội dung dân chủ XHCN: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Trong toàn bộ ý tưởng lớn về dân chủ XHCN, “Dân thụ hưởng” không đơn giản chỉ là việc người dân được nhận điều gì từ Nhà nước, mà cần hiểu một cách rộng hơn: người dân thực sự là chủ, bao nhiêu lợi ích, bao nhiêu quyền hành đều ở nhân dân. Theo đó, người dân là người làm chủ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời trực tiếp thụ hưởng giá trị của quá trình đó. Nhà nước là công cụ thực thi quyền lực của dân, đảm bảo lợi ích phát triển cho từng người dân. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chỉ có ý nghĩa thật sự khi được chuyển hóa vào các khía cạnh phát triển xã hội, phát triển con người và đảm bảo công bằng trong cơ hội phát triển.
Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chỉ có ý nghĩa thật sự khi được chuyển hóa vào các khía cạnh phát triển xã hội, phát triển con người và đảm bảo công bằng trong cơ hội phát triển.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết mới về chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, khẳng định chính sách phát triển xã hội là sự thể hiện tập trung nhất của chính sách đối với con người, vì con người, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cách tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách phát triển xã hội được chuyển dịch từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(7). Như vậy, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. cả các chính sách kinh tế - xã hội cần được đổi mới mạnh mẽ về tư duy, cách tiếp cận vấn đề, xác định các vấn đề mới, quản trị quá trình chính sách… Riêng về chính sách xã hội khi được tiếp cận từ góc độ ổn định và phát triển, hoàn toàn có thể được gọi là chính sách phát triển xã hội mang tính bao trùm và hướng tới thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm xã hội trong thụ hưởng thành tựu phát triển và trong tiếp cận cơ hội phát triển. Nói một cách khác, chính sách phát triển xã hội có mục đích cơ bản là giảm bất bình đẳng xã hội, đảm bảo cơ hội phát triển cho mọi người.
Phiên bế mạc Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Ảnh: Trí Dũng/TTXVN
Chính sách phát triển xã hội là phần nội dung cốt lõi của quản lý phát triển xã hội. Để quản lý phát triển xã hội thật sự có hiệu quả thì không thể thiếu việc đổi mới phương thức hoạch định, tổ chức thực thi, giám sát đánh giá chính sách cũng như hoàn thiện thể chế quản trị chung của đất nước. Đại hội XIII đã đặt ra đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Yêu cầu này đặt ra cả đối với nội dung quản lý phát triển xã hội hướng đến đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội đặt trong khuôn khổ chung của quản trị quốc gia. Từ cách tiếp cận tổng quát này, bài viết đề xuất một số một số vấn đề mang tính lan tỏa và hỗ trợ cho phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn tiếp theo.
Thứ nhất, các chính sách an sinh xã hội và an ninh con người.
Thực hiện rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách về bảo đảm an sinh xã hội. Hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật ứng phó với vấn đề già hóa dân số; chăm sóc sức khỏe toàn dân; quản lý giáo dục nghề nghiệp các cấp, chính sách hỗ trợ người khuyết tật học nghề. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho người dân theo vòng đời, mỗi độ tuổi có chính sách bảo đảm an sinh xã hội phù hợp, trong đó xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, của người dân và cộng đồng. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt, có sự chia sẻ để bảo đảm người dân có việc làm theo khả năng và tham gia các chế độ bảo hiểm để phòng ngừa rủi ro. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng mở đối tượng tham gia, tăng mức thụ hưởng gắn với trách nhiệm; đa dạng hóa các phương thức thực hiện chính sách xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt có sự hỗ trợ lẫn nhau, đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho mọi thành viên trong xã hội...
Thứ hai, chính sách phổ cập và miễn phí giáo dục phổ thông.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ học và không tốt nghiệp các cấp học là khả năng chi trả của gia đình cho dịch vụ giáo dục. Sự thất học trong hiện tại sẽ ảnh hưởng nặng nề đến khả năng được đào tạo nghề và tìm việc làm có tay nghề, thu nhập ổn định trong tương lai. Nếu tiến trình này tiếp diễn thì khoảng cách giàu nghèo tồn tại trong thế hệ bố mẹ sẽ tiếp tục chuyển sang thế hệ con, cháu. Các nhà xã hội học coi hiện tượng này là sự tái tạo bất bình đẳng xã hội qua thế hệ. Do đó, việc thiết lập lộ trình miễn giảm học phí dẫn đến miễn học phí toàn phần cho cấp học phổ thông là một đột phá trong chính sách phát triển xã hội nhằm cung cấp cơ hội giáo dục trong hiện tại và khả năng tìm kiếm việc làm đàng hoàng trong tương lai cho thế hệ trẻ của đất nước.
Thứ ba, chính sách đào tạo và tái đào tạo nghề.
Trong giai đoạn hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện trạng một bộ phận lớn người lao động có học vấn thấp là vấn đề rất đáng lo ngại. Khi dân số trong độ tuổi lao động tăng lên cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ, sẽ tạo ra nhu cầu lớn về đào tạo nghề cho các ngành này. Trong bối cảnh đó, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng của người lao động sẽ đóng vai trò quyết định để họ có hay không có được việc làm trong nền kinh tế mới.
Để góp phần giảm bất bình đẳng trong lĩnh vực đào tạo nghề và việc làm, cần đẩy mạnh xã hội hóa nhằm thu hút nguồn lực cho hoạt động đào tạo nghề. Chỉ có doanh nghiệp hay khái quát hơn là thị trường mới đủ khả năng xác định nhu cầu và cách thức đáp ứng nhu cầu tái đào tạo nghề cho lực lượng lao động. Trên cơ sở nhận thức đó, Chiến lược quốc gia về đào tạo nghề trong giai đoạn mới cần có tính dự báo cáo đối với xu hướng chuyển dịch việc làm trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đồng thời, Chiến lược đào tạo nghề cần có tính liên thông chặt chẽ với chiến lược hỗ trợ việc làm, thúc đẩy thị trường việc làm trong nước và ngoài nước.
Thứ tư, đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản.
Tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội có chất lượng và không bị giới hạn bởi tình trạng hộ khẩu. Theo đó: 1) Bảo đảm tiếp cận dịch vụ có chất lượng, không gặp khó khăn về tài chính do chi phí giá dịch vụ thấp; 2) Tăng cường tiếp cận về mặt địa lý (mở rộng mạng lưới và khả năng đáp ứng của dịch vụ), tiếp cận về tài chính (phù hợp với khả năng chi trả của các nhóm đối tượng khác nhau), tiếp cận về văn hóa, ngôn ngữ (đối với đồng bào dân tộc ít người).
Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, hướng tới nâng cao chất lượng dự báo nhu cầu lao động nhằm nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động, hỗ trợ người lao động tìm việc làm phù hợp.
Thực hiện quản lý dịch vụ công và các dịch vụ an sinh xã hội theo những tiêu chuẩn và danh mục dịch vụ được định mức. Hình thành hệ thống dịch vụ công trong lĩnh vực xã hội theo hướng chuyên nghiệp hóa có sự kiểm soát và điều phối của Nhà nước; chú trọng dịch vụ chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và các dịch vụ trợ giúp xã hội dành cho nhóm yếu thế khác. Xây dựng và thúc đẩy dịch vụ công có chất lượng đối với một số nhóm xã hội có khả năng thanh toán. Đưa dự báo về già hóa dân số và cơ cấu dân số vàng vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn đến năm 2045.
Tăng cường hợp tác công - tư trong cung cấp dịch vụ xã hội cho người dân; tạo cơ chế để khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công. Phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp làm công tác xã hội theo cả chiều sâu và chiều rộng (nhân viên xã hội, cán sự xã hội...). Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và hướng nghiệp cho nhóm lao động yếu thế hướng đến đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và giảm quá tải bệnh viện; tăng cường nhân lực y tế chất lượng cao và nâng cao y đức.
Thứ năm, cải cách quản trị hệ thống tổ chức thực thi chính sách.
Tách bạch chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước (lĩnh vực an sinh xã hội) của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ, thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội để tránh trùng chéo, lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ hoặc xu hướng công chức hoá, hành chính hoá các đơn vị sự nghiệp, sự tham gia của khu vực tư nhân, hợp tác công tư.
Tiếp tục hiện đại hoá quản lý nhà nước lĩnh vực an sinh xã hội trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, xây dựng chính phủ/chính quyền điện tử (số hoá), xây dựng và hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu an sinh xã hội đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý của ngành nói riêng và hiện đại hóa quản lý xã hội nói chung. Gắn kết, đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu về lao động - người có công và xã hội.
Thứ sáu, tăng nguồn lực cho hệ thống an sinh xã hội.
Đa dạng hóa nguồn lực, đồng thời thực hiện lồng ghép để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho thực hiện chính sách an sinh xã hội. Một mặt tăng nguồn lực đầu tư của Nhà nước theo hướng trọng tâm, trọng điểm, tăng nguồn lực đầu tư cho vùng có tỷ lệ tiếp cận dịch vụ xã hội thấp nhằm tăng khả năng tiếp cận của người dân và trẻ em; đồng thời huy động các nguồn lực khác trong xã hội và quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội.
Gỡ nút thắt thể chế trong sử dụng nguồn lực cho các chương trình phát triển xã hội, đặc biệt là các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
Cần nghiên cứu hoạch định lộ trình cho các sắc thuế đánh vào nhóm thu nhập rất cao (siêu giàu), đối với tài sản và tích lũy qua thế hệ (thuế thừa kế, thuế bất động sản). Qua hơn 35 năm đổi mới, với sự hình thành tầng lớp giàu có trong xã hội, đã xuất hiện thế hệ thứ hai của nhà giàu được coi là những người thừa kế tài sản, có thu nhập không thông qua lao động (bao gồm cả tích lũy thông qua “phân tầng không hợp thức”). Nghiên cứu loại hình và mức thuế phù hợp để đảm bảo công bằng xã hội giữa các nhóm xã hội nhưng đồng thời không kích động chạy trốn tư bản.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng giám sát, tăng cường vai trò của giám sát xã hội.
Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định chính sách và cung cấp dịch vụ xã hội thông qua giám sát và thực hiện đối thoại dưới nhiều hình thức. Đổi mới công tác giám sát từ các cơ quan Quốc hội đến các tổ chức cơ sở.
Tăng cường sự tham gia của các đoàn thể chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, tiếp tục thể chế hóa quyền tham gia của người thụ hưởng. Tăng cường dân chủ cơ sở và dân trí cho người dân tham gia vào quá trình xây dựng, giám sát và cung cấp dịch vụ của các chính sách.
Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn theo dõi, đánh giá, giám sát đối với lĩnh vực an sinh xã hội, trong đó có quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể đối với các bên liên quan. Nghiên cứu bổ sung một số chỉ tiêu ở cấp độ kết quả đầu ra hoặc ảnh hưởng tác động đến phát triển xã hội bền vững và kiểm soát phân tầng xã hội. Các chỉ tiêu này nên được tham chiếu với các chỉ báo so sánh quốc tế như chỉ số phát triển con người (HDI); các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs); hệ số bất bình đẳng thu nhập (GINI).../.
Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết mới về chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, khẳng định chính sách phát triển xã hội là sự thể hiện tập trung nhất của chính sách đối với con người, vì con người, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. 
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cách tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách phát triển xã hội được chuyển dịch từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”.
Nguồn: https://tuyengiao.vn
____________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.79.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.30, 30.
(4) (5) Đảng Cộng sản Việt Nam:: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H,2021, t.I, tr.134, 148.
(6) Tổng cục Thống kê (2022): Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2022.
(7) Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương Tám khóa XIII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tin liên quan