
Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được Quốc hội thông qua chiều 23/11, với 413/422 đại biểu tán thành, gồm 9 chương, 95 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Những thay đổi mang tính đột phá này xác lập tư duy quản trị hiện đại, chuyển trọng tâm sang bảo tồn chủ động, sáng tạo và gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời đặt ra yêu cầu triển khai thống nhất, quyết liệt trong toàn ngành.
Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), để làm rõ hơn những định hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tổ chức thi hành Luật.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Phóng viên: Thưa Cục trưởng, Ngày 23/11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Di sản văn hóa 2024, thay thế Luật 2001 và Luật sửa đổi 2009, đánh dấu bước chuyển lớn trong quản lý nhà nước về di sản. Trong giai đoạn tổ chức thi hành, Cục Di sản văn hóa ưu tiên hoàn thiện những nội dung nào để luật sớm đi vào cuộc sống và đáp ứng yêu cầu bảo tồn trong tình hình mới?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Di sản văn hóa: Luật Di sản văn hóa gồm 9 chương, 95 điều, tăng 2 chương, 22 điều so với Luật hiện hành (7 chương, 73 điều) đã thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa và di sản văn hóa, khắc phục, tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, với những điểm mới, thay đổi mang tính đột phá, tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội và kinh tế của đất nước, tạo nên bước chuyển cơ bản về thế và lực cho sự nghiệp quản lý bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của cả nước, của các địa phương, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Luật Di sản văn hóa năm 2024 được xem là bước ngoặt quan trọng trong quá trình đổi mới, chuyển đổi tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý về văn hóa”, chuyển mạnh từ “bảo tồn thụ động” sang “bảo tồn chủ động, sáng tạo và phát triển bền vững”. Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với vai trò cơ quan tham mưu, giúp quản lý nhà nước về di sản văn hóa, Cục Di sản văn hóa xác định rằng, việc Luật được Quốc hội thông qua không chỉ góp phần hoàn thiện khung pháp lý về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, mà còn đặt ra yêu cầu cần khẩn trương, quyết liệt tổ chức triển khai các nhiệm vụ để Luật sớm “đi vào cuộc sống” một cách đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh mới.
Trước hết, tập trung xây dựng và triển khai đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Di sản văn hóa 2024, bao gồm 3 Nghị định và 3 Thông tư, bảo đảm cụ thể hóa các quy định về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản; phân cấp, phân quyền; đơn giản hóa thủ tục hành chính; đồng thời bảo đảm tính thống nhất, khả thi và đồng bộ của hệ thống pháp luật từ trung ương đến địa phương. Song song với đó, Cục tiếp tục nghiên cứu, tham mưu hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho công tác quản lý, kiểm kê, tu bổ, phục hồi, phát huy giá trị di sản và khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn công tác kiểm kê, xếp hạng, công nhận và ghi danh di sản văn hóa vào các danh mục của quốc gia và quốc tế; tăng cường việc bảo tồn, phục hồi các di sản văn hóa có nguy cơ mai một, thất truyền; đồng thời, thực hiện chính sách đãi ngộ, tôn vinh và hỗ trợ nghệ nhân, những người gìn giữ, truyền dạy giá trị di sản văn hóa. Trong quá trình triển khai, luôn xác định cộng đồng là chủ thể trung tâm trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, luôn tôn trọng sự đa dạng văn hóa, thúc đẩy đối thoại giữa các cộng đồng, bảo đảm tính đặc thù vùng, miền, dân tộc, phù hợp với thuần phong mỹ tục và pháp luật Việt Nam, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc và tăng cường khối đại đoàn kết, tạo sinh kế ổn định cho cộng đồng người dân nơi có di sản.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Cục Di sản văn hóa tập trung tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức, đồng thời đổi mới tư duy về quản lý nhà nước và quản trị văn hóa. Mục tiêu là xây dựng lực lượng cán bộ đủ năng lực, hiểu biết sâu về pháp luật, khoa học quản lý và thực tiễn bảo tồn, nhằm phát triển toàn diện sự nghiệp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong giai đoạn mới.
Công tác truyền thông, phổ biến pháp luật cũng được triển khai sâu rộng trên các nền tảng số và truyền thông đại chúng, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cùng với đó là việc tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, số hóa hiện vật và di tích, trưng bày di sản trên môi trường điện tử
Phóng viên: Bên cạnh Luật Di sản văn hóa 2024, nhiều văn bản quan trọng như Nghị định 39/2024/NĐ-CP ngày 16/4/2024 về quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong các danh sách của UNESCO và danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, hay Nghị định 67/2022/NĐ-CP 21/9/2022 về quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Cục trưởng đánh giá đâu là những điểm cần tập trung để tạo sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật này?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Di sản văn hóa: Trong quá trình tham mưu xây dựng Luật Di sản văn hóa 2024 và các văn bản hướng dẫn, việc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Sự đồng bộ này được thể hiện ở hai cấp độ:
Đồng bộ trong quá trình xây dựng pháp luật: Xác định mục tiêu sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hiện trên cơ sở kế thừa các quy định phù hợp được triển khai ổn định từ nhiều năm qua, nhằm giải quyết triệt để các “điểm nghẽn” bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa Luật Di sản văn hóa với các quy định của pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, cập nhật, nội luật hóa các quy định của quốc tế về bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hóa, để bảo đảm tính đồng bộ giữa các quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di tích, di sản thế giới với các quy định về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, di vật, cổ vật, di sản tư liệu…
Đồng bộ trong công tác tuyên truyền và thực thi pháp luật: Kịp thời tổ chức tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực di sản văn hoá nói chung và di tích nói riêng; tham mưu ban hành Công văn số 4058/BVHTTDL-DSVH ngày 12/8/2025 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn thực hiện dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích và các công trình, dự án đầu tư theo quy định tại Nghị định số 208/2025/NĐ-CP của Chính phủ.
Lễ hội Phủ Dầy thuộc danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. (Ảnh: TRƯỜNG HUY)
Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực nhận thức, cũng như năng lực thực thi pháp luật cho đội ngũ công chức, viên chức ngành di sản văn hóa ở trung ương và địa phương.
Nhờ những cách tiếp cận nêu trên, về cơ bản hệ thống pháp luật về di sản văn hóa nói chung, di tích nói riêng đều bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hợp hiến và hợp pháp, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, các hoạt động dịch vụ, hợp tác công tư trong lĩnh vực di sản văn hóa…, và bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Phóng viên: Một trong những tinh thần cốt lõi của Luật Di sản văn hóa 2024 là tăng cường vai trò chủ thể của cộng đồng trong bảo vệ, gìn giữ và truyền dạy di sản. Theo Cục trưởng, cần có những giải pháp gì để huy động hiệu quả hơn sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt tại các địa bàn vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Di sản văn hóa: Luật Di sản văn hóa năm 2024 tăng cường mạnh mẽ vai trò của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Điều này thể hiện rõ ở những nội dung quy định liên quan tới sở hữu di sản văn hóa phi vật thể, kiểm kê, nhận diện, thực hành và trao truyền di sản văn hóa phi vật thể. Luật còn quy định rõ việc thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể trong việc thực hiện các nguyên tắc trong thực hành, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
Ví dụ cụ thể về nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể như: “Tôn trọng quyền của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể và nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các yếu tố cần được bảo vệ và hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản văn hóa; xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di sản văn hóa” (Điều 6); hay như ở Điều 7 về chính sách của nhà nước, Luật quy định: “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, đặc biệt ưu tiên bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người và dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một giá trị văn hóa tộc người”.
Trên tinh thần các quy định của Luật Di sản văn hóa liên quan tới vai trò của chủ thể của di sản văn hóa, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với sự tham gia của của chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể được thể hiện ở tất cả các hoạt động, biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp như: tăng cường công tác kiểm kê, nhận diện, ghi danh di sản văn hóa phi vật thể với sự tham gia của cộng đồng; mở các lớp truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể trong và ngoài cộng đồng với sự tham gia của nghệ nhân, người thực hành; thực hiện các hoạt động tôn vinh nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể; tổ chức các hoạt động liên hoan, trình diễn, thực hành di sản văn hóa phi vật thể; gắn kết hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể với các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển kinh tế, xã hội của địa phương nhằm nâng cao đời sống tinh thần, vật chất, sinh kế của chủ thể di sản.
Phóng viên: Trong bối cảnh nhiều di sản đang chịu sức ép từ đô thị hóa, biến đổi khí hậu và sự thay đổi trong đời sống đương đại, Cục Di sản văn hóa định hướng như thế nào để công tác bảo vệ di sản hài hòa giữa yêu cầu bảo tồn giá trị gốc và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Di sản văn hóa: Trong bối cảnh các di sản văn hóa đang chịu nhiều sức ép từ đô thị hóa, biến đổi khí hậu và những thay đổi mạnh mẽ của đời sống đương đại, chúng tôi luôn nhận thức rằng bảo tồn và phát triển không phải là hai mặt đối lập, mà là hai yếu tố cộng sinh, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển bền vững. Do đó, Cục Di sản văn hóa với vai trò là cơ quan tham mưu giúp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước về di sản văn hóa, đã triển khai một số giải pháp như sau:
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa, tháo gỡ “điểm nghẽn”, tạo bước đột phá về thể chế, cơ chế thuận lợi, phù hợp để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế-xã hội, phát triển du lịch bền vững. Luật Di sản văn hóa năm 2024 (các Điều 28, 29 và Điều 30) và Nghị định số 208/2025/NĐ-CP ngày 17/7/2025 của Chính phủ (các Điều 43, 44 và Điều 45) đã bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ với quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, xây dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan, trên cơ sở quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục cho ý kiến đối với việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ thực hiện hoạt động nằm trong, nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích, nằm ngoài vùng đệm của khu vực di sản thế giới.
Đặc biệt, trên cơ sở khuyến nghị của ICOMOS, UNESCO về việc hoàn thiện việc lồng ghép cơ chế đánh giá tác động di sản, Cục Di sản văn hóa đã tham mưu Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã chủ động nội luật hóa, hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến việc đánh giá tác động di sản thế giới tại Luật Di sản văn hóa (điểm b, khoản 1 Điều 29) và Nghị định số 208/2025/NĐ-CP ngày 17/7/2025 của Chính phủ (Điều 42). Các quy định này, nhằm bảo đảm việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng, xây dựng công trình, sử dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển, thực hiện hoạt động kinh tế-xã hội trong khu vực di sản thế giới, vùng đệm của khu vực di sản thế giới, tuân thủ yêu cầu bảo vệ môi trường, ngăn ngừa, kiểm soát, đánh giá các yếu tố tác động đến di sản thế giới theo quy định và hướng dẫn của UNESCO.
- Nâng cao chất lượng thẩm định các quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị di tích.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra dõi tình hình thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; phát hiện và tổ chức ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm di tích, xử lý hoặc kiến nghị xử lý nghiêm theo quy định đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm.
Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa hành lang pháp lý rõ ràng, vận dụng phù hợp các bộ công cụ, tài liệu hướng dẫn đánh giá tác động di sản thế giới của UNESCO và cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên, Cục Di sản văn hóa tin tưởng rằng trong tương lai bài toán để hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa sẽ từng bước được giải quyết, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội bền vững của các địa phương có di tích, di sản thế giới
Phóng viên: Nhìn lại hơn 20 năm thực hiện Luật Di sản văn hóa 2001 và Luật sửa đổi 2009, theo Cục trưởng, đâu là bài học quan trọng nhất để xây dựng chính sách di sản văn hóa trong thời kỳ mới, nhằm khơi dậy sức mạnh văn hóa và đóng góp thiết thực vào phát triển đất nước?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Di sản văn hóa: Nhìn lại chặng đường hơn hai thập kỷ thực thi Luật Di sản văn hoá 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2009, có thể khẳng định rằng, di sản văn hoá luôn là một trong những trụ cột bền vững của bản sắc và sức mạnh tinh thần dân tộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới, với bối cảnh hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số mạnh mẽ và yêu cầu nâng cao nội lực quốc gia, chúng ta cần một tư duy mới về di sản văn hóa. Chính vì vậy, Luật Di sản văn hoá 2024 được xây dựng trên nền tảng bài học quan trọng nhất:
Di sản văn hoá phải được nhìn nhận như một nguồn lực phát triển quốc gia-cần được quản trị bằng tư duy hiện đại, bằng chính sách dựa trên hệ giá trị Việt Nam, và bằng cơ chế huy động sự tham gia của toàn xã hội.
Từ bài học cốt lõi đó, một số định hướng trọng tâm trong chính sách di sản văn hóa của thời kỳ mới cũng là tinh thần của Luật Di sản văn hóa 2024 được xác định như sau:
Thứ nhất, đặt cộng đồng vào vị trí trung tâm: Luật mới nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng trong gìn giữ và phát huy di sản văn hóa; coi cộng đồng không chỉ là “đối tượng được hưởng lợi”, mà là “người đồng kiến tạo”. Chính sách phải khơi dậy được năng lượng văn hoá trong nhân dân, tạo môi trường để mỗi người dân tự hào, tham gia, và sáng tạo trên nền tảng di sản văn hóa.
Thứ hai, tiếp cận quản trị di sản theo chuẩn mực quốc tế: Luật Di sản văn hóa 2024 đã tiếp cận tổng thể theo khung quản trị hiện đại: minh bạch hóa quy trình, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, tăng trách nhiệm của các chủ thể quản lý, và nâng cao năng lực chuyên môn. Đây là bước chuyển cần thiết để di sản được bảo vệ bền vững và phù hợp với các công ước UNESCO mà Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, gắn bảo tồn với phát triển bền vững: Một trọng tâm quan trọng của Luật Di sản văn hoá 2024 là đưa di sản trở thành nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là du lịch văn hóa, công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo, nhưng phải trên nguyên tắc không làm tổn hại đến giá trị gốc. Phát triển phải có kiểm soát, có kế hoạch và dựa trên đánh giá tác động đầy đủ.
Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số và khoa học-công nghệ: Luật Di sản văn hóa 2024 quy định rõ hơn về số hóa di sản, lập hồ sơ điện tử, trí tuệ nhân tạo trong nhận diện giá trị, và quản lý dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa. Đây là công cụ để chúng ta vừa bảo vệ tốt hơn, vừa mở rộng khả năng tiếp cận của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế Việt Nam: Qua kinh nghiệm 20 năm, có thể thấy hợp tác quốc tế là con đường ngắn nhất để tiếp cận tri thức mới, công nghệ mới và tiêu chuẩn tiên tiến. Luật Di sản văn hóa 2024 tạo hành lang pháp lý để chúng ta tham gia sâu hơn vào mạng lưới di sản văn hóa toàn cầu, đồng thời đưa hình ảnh Việt Nam trở thành một quốc gia có trách nhiệm, chủ động và sáng tạo trong bảo vệ di sản văn hóa.
Ngày 22/11/2023 tại Thủ đô Paris, Cộng hòa Pháp, trong khuôn khổ Kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 các quốc gia thành viên Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước Di sản thế giới), Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Ủy ban Di sản thế giới nhiệm kỳ 2023-2027.
Tóm lại, bài học quan trọng nhất để xây dựng chính sách di sản văn hóa trong giai đoạn mới chính là chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo và phát triển; từ tiếp cận hành chính sang tiếp cận dựa trên giá trị; từ bảo tồn đơn lẻ sang quản trị hệ sinh thái di sản văn hóa.
Với tinh thần đó, Luật Di sản văn hóa 2024 là bước đi chiến lược, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc khơi dậy sức mạnh văn hóa, phát huy giá trị di sản văn hóa như nguồn lực mềm của quốc gia, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Cục trưởng!
Nguồn:nhandan.vn