KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 25/04/2015 - Lượt xem: 472
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Hưng Yên

Đỗ Xuân Tuyên

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên

 

 

 

Bình đẳng giới là vấn đề xã hội, là nhiệm vụ cách mạng luôn được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm: Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng chỉ rõ "nam nữ bình quyền", trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận động mọi lực lượng không phân biệt "...Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc...'' cùng ''tiến lên'' đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều đó khẳng định không chỉ nam giới mà người già, trẻ nhỏ hay phụ nữ - mỗi con người đều có quyền sống, chiến đấu, lao động, học tập, rèn luyện và hoàn thiện bản thân theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Ai cũng có quyền tự do, bình đẳng, quyền được cống hiến và khẳng định giá trị bản thân vì sự phát triển, vì sự tiến bộ và công bằng trong xã hội.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một xã hội, một đất nước, tự nó là mục tiêu của sự phát triển và là yếu tố hỗ trợ, nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội của quốc gia.

Như vậy, bình đẳng giới là một vấn đề mang tính xã hội cấp thiết, xuất phát từ cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của đời sống kinh tế, chính trị xã hội, cần được quan tâm và đặt ra, nhất là lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, hòa cùng xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới, khu vực và toàn cầu.

1. Bình đẳng giới - Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, theo Điều 4 Luật Bình đẳng giới: “mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế, xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”.

 Luật Bình đẳng giới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007, sau khi luật có hiệu lực cùng với việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề bình đẳng giới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Ngày 3/5/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới. Ngày 4/6/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới; Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Theo đó, các chỉ tiêu về giới liên quan đến vấn đề tiêu chí, liên quan đến phụ nữ đều được nâng cao. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập nảy sinh như đặc điểm tâm lí, chức năng gia đình, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phụ nữ... chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay; tỷ lệ cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo còn thấp, nhất là ở cấp cơ sở.

Các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới được thể hiện tám lĩnh vực chính của cuộc sống là: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, y tế và gia đình. Mặc dù các mục tiêu này chưa được cụ thể hóa nhưng tất cả các nội dung đó đã được thể hiện và đang trong quá trình thực hiện. Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/01/2002) và các Chương trình Mục tiêu quốc gia đến năm 2010 góp phần “tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế, xã hội và phát triển nguồn nhân lực”.

Theo đó, ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, xây dựng dự thảo Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đến năm 2020 nhằm tiếp tục quá trình thúc đẩy bình đẳng, đưa ra 3 chỉ tiêu. Trong đó, chỉ tiêu 1: đến năm 2015 có 80% và đến năm 2020 có 100% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.

Căn cứ Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia; Quyết định số 15/2014/QĐ-TTg ngày 17/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng đối với Bộ, ngành; Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; ngày 18/3/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 17/2014/TT - BTP quy định về lồng nghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Như vậy, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội là công việc đã được xác định có tầm quan trọng góp phần vào sự phát triển văn minh của đất nước và được đặt ra từ khá lâu, tuy nhiên đến nay trên thực tế vẫn còn là vấn đề mới, cần sự lưu tâm đóng góp của các cấp, các ngành, các cá nhân và tổ chức.

2. Bình đẳng giới - Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành  văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Hưng Yên

Thực hiện chương trình mục tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hưng Yên đã triển khai thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch, các văn bản chỉ đạo của Trung ương về bình đẳng giới.

Ngày 14/8/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1585/QĐ-UBND kiện toàn Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên. Ngày 13/9/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 140/KH-UBND thực hiện Chương trình quốc gia về bình đẳng giới tỉnh Hưng Yên đến năm 2015. Với mục tiêu tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thúc, thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng giới ở các cấp, các ngành và nhân dân trên địa bàn tỉnh; từng bước thu hẹp khoảng cách giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong một số lĩnh vực còn tồn tại sự bất bình đẳng giới cao; nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới, góp phần thực hiện thành công Chương tình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015.

Căn cứ Luật Bình đẳng giới ngày 29/6/2006, Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 của Chính phủ quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước, ngày 11/12/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2357/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban nhân dân tỉnh với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đảm bảo cho Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tham gia quản lí Nhà nước. Mục tiêu của quy chế là phát huy vai trò của tổ chức Hội trong việc tham gia quản lý nhà nước; tham gia xây dựng, phản biện xã hội và kiểm tra, giám sát việc chấp hành luật pháp, chính sách về bình đẳng giới; tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của cán bộ, hội viên, phụ nữ.

Công tác bình đẳng giới, thực hiện Luật Bình đẳng giới và Chương trình chiến lược quốc gia về vấn đề bình đẳng giới được các cấp, các ngành trong toàn tỉnh tuyên truyền, vận động thực hiện nghiêm túc và được xây dựng gắn với chương trình chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Ngày 09/10/2014, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên đã ban hành Kế hoạch số 108-KH/TU về tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, trong đó quan tâm tiêu chí ưu tiên xây dựng cán bộ nữ tham gia cấp ủy không dưới 15% và có cán bộ nữ tham gia ban thường vụ cấp huyện trở lên (không tính Đảng ủy Công an, Quân sự tỉnh).

Công tác tổ chức, tuyên truyền phổ biến giáo dục về giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm.  Sở LĐTB&XH đã phối hợp Sở Tư Pháp tuyên truyền Nghị định 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009. Báo Hưng Yên xây dựng chuyên mục bình đẳng giới. Đài phát thanh và truyền hình thực hiện các tin, đưa nội dung tuyên truyền giáo dục ý thức và các văn bản pháp luật về bình đẳng giới, nhân rộng gương tốt điển hình, nêu gương và phê bình những sai phạm, đặc biệt trong năm 2013 đã tổ chức buổi tọa đàm "Phát huy vai trò của phụ nữ, thúc đẩy công tác bình đẳng giới" đã phát huy tác dụng. Trang cổng thông tin điện tử Sở LĐTB&XH cũng kịp thời cập nhật các hoạt động về bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên.

Thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, năm 2013, tỉnh tổ chức 15 buổi tuyên truyền Luật Bình đẳng giới - phòng chống bạo lực gia đình cho gần 2000 người, cấp phát 750 cuốn tài liệu, 25.000 tờ rơi về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, pháp luật bình đẳng giới... xây dựng 4 pano khổ lớn tại quốc lộ 5, quốc lộ 39A, 39B thuộc 4 huyện trọng điểm thực hiện chương trình quốc gia bình đẳng giới.

Hưng Yên đã thực hiện tốt việc thu thập, xử lí thông tin, số liệu về giới được tách biệt theo giới, có báo cáo sơ kết, tổng kết đánh giá về bình đẳng giới. Quan tâm công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động bình đẳng giới, có cơ chế chính sách, huy động nhân lực và tạo nguồn kinh phí hoạt động bình đẳng giới. Năm 2013, tổng kinh phí 690 triệu đồng (trong đó nguồn kinh phí Trung ương cấp 490 triệu, ngân sách tỉnh chi 200 triệu đồng).

Hằng năm, Hưng Yên đều thành lập các đoàn kiểm tra công tác bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ tại 10 huyện, thành phố. Kết quả kiểm tra cho thấy việc lồng ghép các mục tiêu bình đẳng giới vào phát triển kinh tế, xã hội của các huyện thành phố đã được quan tâm.

Tuy nhiên, bình đẳng giới và lồng nghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Hưng Yên còn một số khó khăn hạn chế:

Thứ nhất, kỹ năng lồng ghép bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật trình Hội đồng nhân dân tỉnh còn hạn chế do đây là vấn đề mới và khó, thiếu lực lượng cán bộ chuyên môn. Lực lượng cán bộ làm công tác bình đẳng giới còn thiếu.

Thứ hai, mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch phát triển cán bộ nữ từ tỉnh đến cơ sở được chú trọng quan tâm, song do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan đã cản trở cán bộ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo, ảnh hưởng tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lí là nữ ở các cấp, các ngành được nâng lên song vẫn chiếm tỉ lệ thấp:

- Nhiệm kì 2010 -2015, cán bộ nữ tham gia cấp ủy có tỉ lệ:

+ Cấp tỉnh: 7/55 người, đạt 12,7%

+ Cấp huyện: 71/444 người, đạt 16%

+ Cấp cơ sở: 793/4450 người, đạt 17,8%

- Nữ đại biểu Hội đồng nhân dân:

+  Cấp tỉnh: 12/53 người, đạt 22,64%

+ Cấp huyện: 99/332 người, đạt 29,82%

+ Cấp cơ sở: 1072/4112 người, đạt 26,07%.

- Cán bộ lãnh đạo là nữ ở các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị do Tỉnh ủy quản lí: 22/159 đạt 13,8%.

- Trưởng, phó phòng và tương đương cấp tỉnh là nữ: 74/303 người, đạt 24,4%.

- Ở cấp huyện:

+ Bí thư, phó bí thư, chủ tich HĐND - UBND là nữ: 4/28 (14,3%).

+ UVBTV, phó chủ tịch HĐND - UBND là nữ: 12/119 (10,1%).

+ Trưởng, phó phòng và tương đương là nữ: 94/447 (21%).

Thứ ba, tuy công tác tuyên truyền Luật Bình đẳng giới được quan tâm, phổ biến sâu rộng trong toàn tỉnh, song trên thực tế đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực gia đình suy nghĩ và quan niệm bình đẳng giới còn bị ràng buộc khá nhiều bởi những khuôn mẫu định kiến về giới: Phụ nữ là người đảm nhận chính công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nam giới giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Tâm lý thích sinh con trai hơn con gái, nên tỷ số giới tính nam khi sinh đã có sự gia tăng trong những năm gần đây. Từ những năm 2006 – 2007, Hưng Yên đã là 1 trong 8 tỉnh, thành phố trên cả nước đáng lưu ý vì có tỷ số giới tính khi sinh chênh lệch lớn về chỉ số bé trai trên 110. Năm 2013  tỉ lệ chênh lệch là 117 trẻ em trai được sinh ra trên 100 trẻ em gái. Đó chính là những rào cản lớn về nhận thức, tư tưởng mang tính chủ quan cản trở không nhỏ đến bình đẳng giới.

3. Đề xuất, kiến nghị

 Qua nghiên cứu thực tiễn tại địa phương, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương Hưng Yên nói riêng và mạnh dạn chia sẻ giải pháp, trao đổi kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất: lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bám sát tình hình thực tế. Muốn vậy, cần thực hiện tốt công tác thống kê số liệu có tách biệt giới, nhằm cung cấp những thông tin phản ánh đúng thực trạng về tình hình giới, đặc điểm kinh tế, tình hình chính trị xã hội, tình hình dân trí và nhận thức của nhân dân về bình đẳng giới. Từ đó có thể đưa ra những mục tiêu phù hợp, giải pháp cụ thể, hữu ích xây dựng và ban hành luật, văn bản quy phạm pháp luật có tác dụng tích cực về bình đẳng giới, phù hợp thực tế.

Thứ hai: xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành nhằm phân tuyến, chia sẻ các hoạt động và huy động được tổng lực, đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của các cấp, các ngành. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ và nâng cao hiệu quả việc lồng ghép, các cơ quan chức năng, ban, ngành, đoàn thể cần rà soát để nhận thức rõ vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình trong nhiệm vụ mục tiêu chung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đóng góp hiệu quả, tích cực vào công tác nghiên cứu, xây dựng, thẩm định và áp dụng văn bản vào thực tiễn.

Thứ ba: chú trọng đào tạo cán bộ chuyên trách và nâng cao năng lực cán bộ làm công tác bình đẳng giới, cán bộ nghiên cứu nội dung bình đẳng giới, xây dựng luật và văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư: đây là một vấn đề mới và tương đối nhạy cảm, để nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh chương trình thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các Bộ, ngành cần  xây dựng lực lượng chuyên viên, chuyên gia giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát và khảo sát kịp thời ở các cấp, các ngành liên quan từ Trung ương đến cơ sở nhằm nắm bắt thực tế, tư vấn, thúc đẩy, bổ sung điều chỉnh và uốn nắn kịp thời.

Thứ năm: các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố cần chủ động xây dựng kế hoạch, lên phương án thực hiện chi tiết, cụ thể, xác định rõ những yêu cầu cần thiết về biên chế và đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công tác và kinh phí hoạt động, lập dự toán kinh phí đề xuất lãnh đạo bộ, ngành và lãnh đạo địa phương nghiên cứu phân bổ, tạo điều kiện chuẩn bị tốt nhân lực, vật lực và những điều kiện khác để lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật có tính khả thi cao, phát huy tác dụng, bám rễ sâu vào đời sống xã hội.

Thứ sáu: Nghiên cứu khả năng và hiệu quả lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đưa vào chương trình giáo dục pháp luật trong các nhà trường (trong phạm vi môn Giáo dục công dân đối với các trường THCS và THPT, giáo dục chính trị đối với các trường chuyên nghiệp và các trường chính trị).

Tin liên quan