Yêu cầu đối với việc sắp xếp tổ chức lựa chọn cán bộ trong giai đoạn hiện nay, đặt ra cho người lãnh đạo, quản lý phải trang bị cho mình đẩy đủ tri thức, kinh nghiệm, bản lĩnh chính trị vững vàng. Đây không chỉ là tiêu chuẩn để rèn luyện và chọn nhân tài kế tục sự nghiệp mà còn là yêu cầu đối với việc rèn luyện phẩm chất, lựa chọn nhân tài của người lãnh đạo. Như vậy mới có thể đáp ứng được sự nghiệp phát triển của đất nước, mới có thể thích ứng được xã hội cạnh tranh ngày nay.
6. Đổi mới và đan xen các thế hệ cán bộ
Hồ Chí Minh luôn nhìn xã hội với sự phát triển, tiến hóa không ngừng, nhưng đời con người ta là có giới hạn, ai cũng phải già, phải được nghỉ ngơi và tất nhiên phải có lớp cán bộ kế tiếp.
Mỗi thế hệ cán bộ sinh ra và trưởng thành trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, mỗi người đều có những sở trường và sở đoản, cái mạnh và cái yếu nhất định, tuyệt nhiên không ai giống ai. Chính vì thế Hồ Chí Minh đã đưa ra những cách ứng xử khác nhau:
Thứ nhất, trân trọng con người cố gắng phát huy những mặt mạnh, những tư tưởng của từng người, cố gắng tận dụng, sắp xếp hợp lý, theo quan niệm “dụng nhân như dụng mộc”. Dùng người như dùng gỗ, gỗ nào cũng có thể dùng được, vấn đề quan trọng là biết dùng gỗ nào cho việc nào, tuyệt đối không được nhầm lẫn sẽ hỏng việc và hỏng người. Ví như không thể dùng gỗ tạp để làm hoành phi câu đối, dẫu có sơn son thiếp vàng thì cũng chỉ là đem cái mỹ miều che khuất cái mối mọt ở bên trong; cũng không thể phí phạm đem gỗ vàng tâm đi làm cầu ao, đem “tứ thiết” dùng làm chuồng bò, chuồng lợn. Quan điểm “dụng nhân như dụng mộc” của Hồ Chí Minh thống nhất với quan điểm trọng con người, yêu quý cán bộ của Người bởi vì nếu khéo dùng thì ai đều có ích cho công việc nước nhà. Người viết: “phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”
[1].
Thứ hai, phải thấy cái hạn khắc nghiệt của thời gian để tạo nguồn đào tạo thay thế, bổ sung cho tổ chức những lớp người mới, đủ sức lực và tài đảm đương nhiệm vụ theo những yêu cầu mới mà lớp già khó có thể đáp ứng. Tổ chức “cần cán bộ già, đồng thời rất cần nhiều cán bộ trẻ... Công việc ngày càng nhiều, càng mới. Đảng phải đào tạo, dìu dắt đồng chí trẻ. Một mặt, đảng viên già phải cố gắng mà học”. Mặt khác, cũng cần thấy giới hạn lịch sử đối với cán già mà họ không thể vượt qua. Do vậy, cần nâng niu, giúp đỡ và mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ trẻ. Làm sao tạo lập được bầu không khí phấn khởi khi thấy lớp trẻ tiến bộ, trưởng thành. Hồ Chí Minh đã viết: “Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt”
[2] .
Thứ ba, nguồn cung cấp cán bộ là tất cả thanh niên, những người đã được giáo dục, đào tạo. Ai ai cũng đều có cơ hội đem tài đức, trí trai để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thứ tư, việc đan xen, kế tiếp các thế hệ cán bộ liên quan đến cách lựa chọn cán bộ.
- Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.
- Những người liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu biết quần chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của quần chúng. Như thế thì quần chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
- Những cán bộ có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết phải kiên quyết, gan góc, không sợ khó khăn.
- Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật. Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo cho đúng.
Việc đổi mới cán bộ phải rất khách quan, công minh, cần lấy việc hoàn thành nhiệm vụ làm căn cứ. Hồ Chí Minh luôn luôn tôn vinh những cán bộ công tác ở sở hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Vấn đề này, Lênin trước đó cũng cho rằng nhiều khi các đồng chí công tác ở địa phương có những sáng kiến giải quyết tốt những việc cụ thể mà thực tiễn cách mạng đang đặt ra lại có ích hơn những cán bộ bàn giấy ở Trung ương vì nó có tác dụng ảnh hưởng đến toàn cục. Hồ Chí Minh cho rằng niềm sung sướng, hạnh phúc của người cán bộ là làm tốt công việc được giao. Người cho rằng, có đồng chí tưởng là làm chủ tịch, bộ trưởng mới sướng; đồng chí nào làm ở hợp tác xã, làm tốt là anh hùng; bộ trưởng mà không làm tròn nhiệm vụ là tồi... Đảng ta còn cần nhiều cán bộ làm hợp tác xã tốt. Hợp tác xã tốt là làm cho dân giàu, nước mạnh. Do vây, cần phải tổng kết từ phong trào thực tiễn, phát hiện những nhân tố mới, những cán bộ trẻ có đức, có tài để trao nhiệm vụ cho họ. Mặt khác, cũng cần tạo ra điều kiện cho số cán bộ lớn tuổi, đã công tác quá lâu trong các văn phòng có điều kiện thâm nhập thực tế để khỏi lạc hậu với thực tế. Vấn đề luân chuyển cán bộ hiện nay là một chủ trương đúng phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, quan trọng vẫn là việc thực hiện chủ trương đó sao cho khách quan, công tâm, lấy lợi ích của công việc làm điểm xuất phát.
7. Vun trồng lòng tự trọng, tự tin cho cán bộ, giúp họ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm
Đối với cán bộ, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chăm chút phát huy, vun trồng nơi họ lòng tự trọng, tự tin, bởi vì Người cho rằng: “Ai cũng có lòng tự trọng, tự tin. Không có lòng tự trọng, tự tin là vô dụng”. Người khuyên việc cất nhắc cán bộ không nên làm như “giã gạo”, nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ nhấc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Vì vậy, Người đòi hỏi phải xem xét kỹ trước khi cất nhắc; giúp đỡ, vun trồng, khuyên nhủ, khích lệ lòng tự tin, tự trọng; kiểm tra, uốn nắn thường xuyên, không để “tích tiểu thành đại”, “tập dữ tính thành” đến mức “sai lầm và khuyết điểm trở nên to rồi mới đem ra “chỉnh” một lần, thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” mất cả lòng tự tin, người hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí đến vô dụng”.
Để có những cán bộ tốt, người lãnh đạo, người quản lý phải dày công, kiên nhẫn và thương yêu cán bộ. “Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc... Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp cho họ sửa chữa ngay, để vun trồng thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời, phải nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Làm thế không phải là làm cho họ kiêu căng, mà làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí cho họ, để đi đến chỗ “bại cũng không nản, thắng cũng không kiêu”
[3] . Hồ Chí Minh còn căn dặn khi phê bình cán bộ phải có lý, có tình, chớ có đao to búa lớn, chớ có gay gắt, chớ thiên vị, chớ dùng phê bình để làm mất thể diện của cán bộ. Cần quan niệm rằng, phê bình là hướng về cái chân, thiện, mỹ, là làm cho cán bộ tốt đẹp hơn.
Con người ai cũng có sai lầm, càng làm việc càng có thể mắc sai lầm. Trừ những kẻ cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm. Sai lầm là vì không hiểu, không biết. “Vì vậy, đối với cán bộ sai lầm, ta quyết không nên nhận là họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, gần gũi tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế sẽ có hại đến công việc thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa? Tóm lại, phải phê bình cho đúng”
[4]. Nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: phê bình việc chứ không phải phê bình người, phê bình phải thành tâm, thành ý, giải thích rõ ràng, làm cho người được phê bình tự trông thấy, tự nhận ra (như chỉ cho người ta thấy vết nhọ ở trên mặt) khiến họ tự giác, vui vẻ mà đổi chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi (C.Mác coi đó làm cho người ta vui vẻ đoạn tuyệt với quá khứ lầm lạc của mình).
Sửa chữa khuyến điểm tất nhiên là của cán bộ mắc khuyến điểm, nhưng cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo. Cần lấy việc giải thích, thuyết phục, dạy bảo tận tình là chính. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết thì cũng phải xử phạt bởi lỗi lầm có việc to, việc nhỏ, sự tự giác của con người cũng không nhất loạt như nhau. Nếu không xử phạt nghiêm khắc thì sẽ mất cả kỷ luật, sẽ mở đường cho thói xấu phát triển, lây lan và bọn cố ý phá hoại-xử phạt cũng là một hình thức giáo dục. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt cũng không đúng.
8. Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của cấp trên. Người đã nhiều lần nhắc nhở đảng viên và cán bộ cấp trên phải làm mực thước cho cán bộ cấp dưới và người vào Đảng. “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, nếu cán bộ cấp trên không gương mẫu thì làm sao có thể bảo ban, hướng dẫn cấp dưới, làm sao suy trì được kỷ luật Đảng và trật tự, kỷ cương phép nước.
Trong rất nhiều bài nói, Hồ Chí Minh đã kịch liệt phê phán thói nể nang, bênh che cho nhau. Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ rằng mình làm cách mạng là để phục vụ nhân dân, phải luôn ghi tạc trong lòng lo toan công việc chung trước mọi người, hưởng thụ sau người. Chỉ có như vậy mới thu phục, cảm hóa, giáo dục cấp dưới và mọi người.
Khi nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cán bộ đối với thành bại của công việc, Hồ Chí Minh không nói cán bộ chung chung mà luôn luôn xem xét, quy trách nhiệm cụ thể và trách nhiệm cuối cùng bao giờ cũng thuộc về người lãnh đạo cao nhất của địa phương, đơn vị. Trong tác phẩm
Tự phê bình đăng trên báo
Cứu quốc, số 153, ngày 28/1/1946, về sự chân thành và tinh thần tự chỉ trích của Hồ Chí Minh, sau khi nêu lên những công việc đã làm được và những khuyến điểm tồn tại của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Có thể nói rằng: những khuyết điểm đó là vì thời gian còn ngắn ngủi, vì nước ta còn mới, hoặc vì lẽ này, lẽ khác. Nhưng không, tôi phải nói thật: những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi”
[5].
9. Đổi mới phương pháp lãnh đạo để dùng người
Vì việc mà dùng người. Công việc xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn biến đổi, phát triển. Do đó, phải không ngừng đổi mới phương pháp lãnh đạo để dùng người. Hồ Chí Minh đã đã đưa bốn hướng tiếp cận về đổi mới phương pháp lãnh đạo như sau:
Một là, phải khiêm tốn học hỏi quần chúng không chỉ còn là nội hàm của phạm trù đạo đức mà phải xác định như là điều kiện cần và đủ của lãnh đạo.
Lãnh đạo quần chúng đương nhiên là trách nhiệm của người lãnh đạo, nhưng để lãnh đạo được phải học hỏi quần chúng. Điều đó có nghĩa là “người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu”. Điều đó cũng có nghĩa là “phải biết lắng nghe ý kiến của những người quan trọng”. “Hiểu thấu”, “biết lắng nghe”, học hỏi quần chúng, đề cao dân chủ, “đưa chính trị vào giữa dân gian” đã hợp thành một hệ giá trị của văn hóa chính trị, là vấn đề hàng đầu của đổi mới phương pháp lãnh đạo.
Hai là, nhân dân là người thi hành quyết định của lãnh đạo, do đó nhân dân phải là người được tham gia vào quá trình ra quyết định. Đây là hướng tiếp cận đạt tới dân chủ trực tiếp, nó vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa thể hiện trách nhiệm cao trước quyền lực mà người lãnh đạo được nhân dân ủy thác và việc sử dụng quyền lực đó.
Tất nhiên, lãnh đạo cũng có lúc thiếu sót, sai lầm, song lãnh đạo chính trị - xã hội thì cần phải hạn chế mức tối thiểu những sai lầm có thể xảy ra, bởi vì không bao giờ được phép coi những quyết định chính trị - xã hội giống như các quyết định về khoa học công nghệ trong phòng thí nghiệm.
Ba là, kiểm soát là điều bắt buộc của lãnh đạo, nó như là tiêu chí xác định lãnh đạo và có biết lãnh đạo hay không? “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”. “Khéo kiểm soát” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao gồm các phương thức, các giải pháp tiến hành. Việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường xuyên. “Người đi kiểm soát phải là những người có uy tín”, “phải đi tận nơi, xem từ dưới lên” “tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sai lầm đó”. Vì vậy, cách kiểm soát tốt nhất là phải thực hành triệt để “nguyên tắc tập trung”. Những tư tưởng này cũng góp phần vào việc bổ sung, hoàn chỉnh lý thuyết thanh tra mà Lênin đã từng đề cập trong thời kỳ lãnh đạo chính quyền Xô viết.
Bốn là, hai cách liên hợp được coi là nguyên tắc phổ quát của phương pháp lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định, bất kỳ một công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo: Liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và liên hợp người lãnh đạo với quần chúng. Liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng được Người coi là một cách “vừa lãnh đạo, vừa học tập”. Vì vậy, “bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không chỉ biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận”
[6]. Nếu không biết học và làm theo phương pháp này thì có thể coi là không biết lãnh đạo. Liên hợp lãnh đạo với quần chúng là phương pháp phân loại, xác định nhóm trung kiên và mối liên hệ của nhóm đó với đa số dân cư. Không có sự liên hợp đó ắt sẽ không tạo lập được phong trào quần chúng hăng hái, sôi nổi thực hiện thắng lợi các quyết định của lãnh đạo.
Từ những vấn đề được nêu ở trên, có thể thấy rằng dù trong bất cứ thời đại nào người lãnh đạo luôn phải có tầm nhìn xa, hiểu và nắm rõ tình hình; luôn sáng tạo tìm tòi cái cái mới để tiến lên. Họ phải có tấm lòng rộng mở, chú ý đến đại cục, giữ vững tính đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết với đồng chí, đồng nghiệp, có năng lực gắn bó với quần chúng….; yêu cầu đối với việc sắp xếp tổ chức lựa chọn cán bộ trong giai đoạn hiện nay, đặt ra cho người lãnh đạo, quản lý phải trang bị cho mình đẩy đủ tri thức, kinh nghiệm, bản lĩnh chính trị vững vàng. Đây không chỉ là tiêu chuẩn để rèn luyện và chọn nhân tài kế tục sự nghiệp mà còn là yêu cầu đối với việc rèn luyện phẩm chất, lựa chọn nhân tài của người lãnh đạo. Như vậy mới có thể đáp ứng được sự nghiệp phát triển của đất nước, mới có thể thích ứng được xã hội cạnh tranh ngày nay.
NĐ (sưu tầm, tổng hợp)
[1] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.5, tr.273
[2] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.10, tr.465
[3] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.4, tr.283
[4] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.5, tr.283
[5] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.4, tr.166
[6] Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.5, tr.289