Sau gần 15 năm tái lập tỉnh, mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, song về cơ bản, nền kinh tế tỉnh Hưng Yên vẫn phụ thuộc rất lớn vào sản xuất nông nghiệp. Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vai trò trọng yếu trong sự phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh. Vì vậy, sau khi Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn được ban hành, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động xác định những mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp thiết thực để phát triển nền nông nghiệp bền vững có chất lượng cao. Tiếp đó, ngày 25/11/2011, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về “Chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020”.
Một góc vùng chuyên canh nhãn lồng ở thành phố Hưng Yên
Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, các cấp ủy đảng, các ngành có liên quan đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của cấp mình. Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt 6 quy hoạch ngành, chuyên ngành, nhiều chương trình, đề án, dự án để cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết, tiêu biểu như: Chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2015, định hướng 2020; Đề án phát triển sản xuất giống cây trồng vật nuôi chất lượng cao tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2015, định hướng 2020; Dự án duy trì và nâng cao năng lực hệ thống sản xuất giống lúa tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2015; Dự án bảo tồn giống nhãn đặc sản và nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm vùng chuyên canh nhãn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2012-2015; Dự án cạnh tranh ngành chăn nuôi và an toàn thực phẩm (lifsap); Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tỉnh Hưng Yên; Dự án xây dựng mô hình sản xuất lúa - cá và nuôi theo hướng Vietgahp tỉnh Hưng Yên; Dự án phát triển cơ giới hóa nông nghiệp tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2012 – 2015, định hướng 2020. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp hàng năm như: hỗ trợ giống lúa, hỗ trợ cây vụ Đông, hỗ trợ diệt chuột, hỗ trợ phát triển giống lợn nạc, hỗ trợ để tăng tỷ lệ bò lai Brahman đỏ, hỗ trợ xây dựng mô hình lúa – cá, hỗ trợ vắc xin tiêm phòng cho lợn giống, bò sữa, bệnh dại, hầm biogas… Bên cạnh đó, đầu tư nhiều đề tài, dự án kiểm nghiệm giống; xây dựng, cải tạo trạm bơm, kênh mương; hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu hàng hóa đối với cây trồng, vật nuôi có thế mạnh của tỉnh.
Tỉnh đã chỉ đạo ngành Nông nghiệp tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các cơ quan khoa học Trung ương để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất, góp phần tăng hiệu quả sản xuất; chỉ đạo các sở, ngành, đoàn thể tỉnh và các huyện, thành phố phối hợp chặt chẽ với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc tổ chức thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao, gắn với xây dựng nông thôn mới. Công tác xúc tiến thương mại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan tâm. Mỗi năm, tỉnh hỗ trợ hàng trăm triệu đồng cho công tác xúc tiến thương mại đối với các nông sản có thế mạnh; chỉ đạo tăng cường quảng bá các nông sản của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, giới thiệu các mô hình sản xuất hiệu quả; chỉ đạo xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa có thế mạnh.
Với những giải pháp đồng bộ đó, sau một thời gian thực hiện, ngành Nông nghiệp tỉnh đã thu được những kết quả quan trọng. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, chuyển đổi mạnh sang hướng hàng hoá chất lượng cao và giá trị kinh tế cao, sản xuất lúa liên tục được mùa, chất lượng và hiệu quả được nâng cao (tăng trưởng bình quân gần 2%/năm). Đến năm 2015, cơ cấu nông nghiệp có chuyển dịch tích cực: Cây lương thực chiếm 19,58% - rau, củ, quả 25,09% - chăn nuôi, thủy sản 55,33% (mục tiêu: 20% - 35% - 45%). Thu nhập trên 1 ha canh tác đạt trên 150 triệu đồng.
Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt khoảng 108 nghìn ha (trong đó lúa: 80 nghìn ha), năng suất bình quân 64 tạ/ha/vụ; sản lượng lương thực bình quân đạt 56 vạn tấn/năm (thóc 51 vạn tấn/năm); vụ Xuân chủ yếu gieo cấy trà Xuân muộn; lúa chất lượng cao chiếm 60% diện tích. Chuyển đổi nhanh những giống cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ ổn định như: trồng chuối, trồng hoa, cây cảnh, cây dược liệu thay thế các cây hiệu quả thấp như cây ngô, cây dong riềng và cây hàng năm khác, cho lãi khoảng 150-300 triệu đồng/ha/năm. Các vùng chuyên canh tiếp tục được mở rộng, hiệu quả kinh tế ngày một tăng; đặc biệt, đã chuyển đổi trên 6.000 ha từ trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, cây hàng năm, kết hợp với chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho hiệu quả cao gấp 3 đến 5 lần trồng lúa, tạo sự chuyển biến mạnh trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tích cực. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa như: trồng lúa ở Ân Thi, Phù Cừ, một phần ở Kim Động, Tiên Lữ; trồng hoa, cây cảnh ở Văn Giang, một phần ở Khoái Châu, Văn Lâm; trồng cây ăn quả ở Văn Giang, một phần ở Khoái Châu, Kim Động, Tiên Lữ, thành phố Hưng Yên. Một số mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ được hình thành như: mô hình sản xuất lúa gạo Nhật Bản ở Kim Động, Mỹ Hào; mô hình dưa chuột xuất khẩu ở Tiên Lữ… Đã xây dựng được một số thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá tập thể như: Nhãn lồng Hưng Yên, Quất cảnh Văn Giang, Vải lai chín sớm Phù Cừ, Gà Đông Tảo ở Khoái Châu và Tương bần ở Mỹ Hào.
Hệ thống thủy lợi được đầu tư lớn, xây mới, cải tạo, nâng cấp, chủ động tưới tiêu trên 95% diện tích; kiên quyết trong giải tỏa các vi phạm công trình thủy lợi. Tăng cường hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn thông qua thuỷ lợi phí và giống cây, con mới, chất lượng cao. Thực hiện có hiệu quả việc dồn thửa đổi ruộng đất nông nghiệp.
Chăn nuôi, thủy sản phát triển mạnh và đều khắp các huyện, thành phố. Cơ cấu giống đàn gia súc, gia cầm chuyển dịch mạnh theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cơ cấu giống cũng chuyển đổi theo hướng tăng hiệu quả kinh tế; một số thủy sản, đặc sản được đưa vào sản xuất như: ếch, ba ba, lươn, cua đồng, cá rô đồng, cá rô đầu vuông… Trang trại, gia trại phát triển tương đối vững chắc. Toàn tỉnh hiện có trên 650 trang trại và hàng trăm gia trại đang phát huy hiệu quả. Chăn nuôi quy mô nhỏ giảm mạnh từ 40% xuống còn khoảng 25% số hộ chăn nuôi. Đã hình thành nhiều mô hình liên kết sản xuất – tiêu thụ sản phẩm thông qua ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa doanh nghiệp với hộ chăn nuôi như: mô hình liên kết, tiêu thụ sản phẩm của Công ty Sữa Vinamilk và Công ty Sữa quốc tế đã ký kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm sữa cho người chăn nuôi bò sữa. Công nghiệp chế biến nông sản có bước phát triển. Toàn tỉnh hiện có 2.060 cơ sở, hộ gia đình tham gia chế biến nông sản, thủy sản.
Cùng với những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU trên địa bàn tỉnh vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục là: Việc quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết ở nhiều nơi còn qua loa chiếu lệ, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức chưa sâu sắc nên hiệu quả chưa cao; sản xuất nông nghiệp tuy có mức tăng trưởng khá nhưng chưa bền vững; các mô hình liên kết sản xuất, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế; sản xuất vẫn chưa thoát khỏi tình trạng manh mún, khả năng cạnh tranh của nông sản không cao; tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo còn thấp; một số chỉ tiêu chưa đạt mục tiêu Nghị quyết như tốc độ tăng trưởng nông nghiệp, tổng đàn lợn, đàn bò; công tác quản lý chất lượng, vật tư đầu vào phục vụ sản xuất còn nhiều bất cập; công tác xúc tiến thương mại còn hạn chế, sự liên doanh, liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp còn ít và thiếu chặt chẽ; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu gieo trồng, thu hoạch, bảo quản chế biến thấp; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém trên là do một bộ phận không nhỏ nông dân trong tỉnh nhận thức về cơ chế thị trường trong sản xuất nông nghiệp chưa đầy đủ, tập quán sản xuất theo hướng tự cung, tự cấp vẫn còn ở nhiều nơi; việc nông dân vay vốn để đầu tư “làm ăn lớn” chưa nhiều. Bên cạnh đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm do chuyển đổi mục đích sử dụng sang phi nông nghiệp, nên bình quân diện tích sản xuất nông nghiệp thấp, cộng với tập quán canh tác tự cung, tự cấp dẫn đến sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Sự liên kết “4 nhà” và đầu tư của doanh nghiệp vào sản xuất nông nghiệp chưa được cải thiện; cơ giới hóa trong khâu gieo trồng, thu hoạch, bảo quản chế biến và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật rất khó khăn, hạn chế; việc quảng bá sản phẩm còn hạn chế nên việc tiêu thụ nông sản khó khăn, hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao. Chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn còn thấp, kiến thức của nông dân trong công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế; công nghiệp chế biến nông nghiệp chậm phát triển, chủ yếu là tiêu thu sản phẩm thô hoặc chế biến thủ công quy mô nhỏ, hộ gia đình.
Xác định sản xuất nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, đảm bảo an sinh xã hội và ổn định an ninh, trật tự tại địa phương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo UBND tỉnh báo cáo sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 25/11/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVII) về “Chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020”, đồng thời tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, các đề án, dự án đã được phê duyệt, kế hoạch khung về chuyển từ trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây hàng năm, kết hợp chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trên đất trồng lúa. Cùng với việc xác định các nhiệm vụ chủ yếu cần tập trung thực hiện nhằm tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TU, UBND tỉnh đã đề ra 3 nhóm giải pháp chính các huyện, thành ủy, các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh cần tập trung thực hiện trong thời gian tới, gồm nhóm giải pháp về giống, về các biện pháp kỹ thuật và về quy hoạch, liên kết sản xuất. Trọng tâm của nhóm giải pháp về giống là tiếp tục thực hiện các đề án, dự án sản xuất giống lúa, bảo tồn giống nhãn đặc sản, phát triển chăn nuôi lợn nạc an toàn sinh học theo hướng VietGAP và bò thịt cao sản 3 máu. Về các biện pháp kỹ thuật, từng bước áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất lúa; phát triển cây trồng theo quy hoạch, tránh tràn lan dẫn đến được mùa mất giá; ứng dụng quy trình kỹ thuật tưới nước tiết kiệm đối với cây trồng cạn; phát triển chăn nuôi theo quy mô công nghiệp, an toàn sinh học, tập trung và xa khu dân cư. Về quy hoạch, liên kết sản xuất, cùng với việc rà soát, bổ sung phù hợp với thực tiễn các quy hoạch ngành, một trong những việc quan trọng là hoàn thành dồn thửa đổi ruộng đất nông nghiệp, khuyến khích tích tụ ruộng đất, liên kết sản xuất, gắn với thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác để tạo ra vùng sản xuất tập trung; xây dựng và vận hành điểm chuỗi ngành hàng trong chăn nuôi, thủy sản; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại gắn với từng sản phẩm hàng hóa cụ thể.
Với quyết tâm chính trị cao, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cụ thể của các cấp, các ngành, mỗi cán bộ, đảng viên đều tin tưởng và hy vọng vào triển vọng và những thành tựu tốt đẹp mà ngành Nông nghiệp Hưng Yên sẽ đạt được trong tương lai, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tỉnh Hưng Yên giàu đẹp, văn minh.
Hoàng Duy