KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đăng ngày: 14/12/2016 - Lượt xem: 4340
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của mình, từ khi tìm được con đường cứu nước, cứu dân, cho đến khi vĩnh biệt chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành nhiều tâm sức cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người đã vận dụng sáng tạo các luận điểm mácxít về vai trò, vị trí của thế hệ trẻ trong xã hội, về giáo dục thế hệ trẻ trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng, quan điểm của Người về thế hệ trẻ và giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ chính là di sản tinh thần vô giá cho chúng ta hôm nay và mai sau.

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ

1.1. Thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng, của dân tộc

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tương lai, vận mệnh của đất nước, của dân tộc nằm trong tay thế hệ thanh thiếu niên. Người khẳng định, thanh thiếu niên là lực lượng cách mạng hùng hậu, bộ phận quan trọng của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh. Khi nước ta còn dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, ngay từ năm 1925 trong “Thư gửi thanh niên An Nam”, Người đã chỉ rõ, đất nước sẽ không còn nếu thanh niên không được “hồi sinh”, thức tỉnh, mãi “chìm ngập trong sự biếng nhác”. Người đã gióng lên một hồi chuông thức tỉnh, cảnh báo: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”1

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã giành được chính quyền, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên, Bác Hồ lại khẳng định vai trò quan trọng của thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”2. Bác biểu lộ niềm tin vững chắc vào thế hệ trẻ “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông cậy, mong đợi ở các cháu rất nhiều”3.Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh niên: “Người ta thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”4. Bác dùng hình ảnh tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”5. Đồng thời Bác cũng nhắc nhở tuổi trẻ chính là lực lượng kết nối quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai, là lực lượng tiếp sức, kế tục cách mạng “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng”6.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác luôn tin tưởng tuyệt đối vào thế hệ trẻ với sức vóc và nhiệt huyết “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Bác Hồ đã biểu dương thanh niên ta chính là “thanh niên anh hùng của dân tộc anh hùng”7. Đây thực sự là sự đánh giá cao nhất về vai trò, vị trí của thanh niên mà Người dành cho thế hệ trẻ.

1.2. Thế hệ trẻ phải vươn lên để hoàn thành trọng trách lịch sử của mình

Tình cảm của Bác đối với thế hệ trẻ không những là tình yêu thương, ân cần, thắm thiết, mà còn là niềm tin tưởng vào tương lai của thanh niên. Người đánh giá rất cao về vị trí và vai trò của thế hệ trẻ, nhưng “thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn”, vì thế Người cũng yêu cầu thế hệ trẻ phải vươn lên để làm chủ được tương lai, “thật xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa”.Với các cháu nhi đồng, Bác thường căn dặn: “Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh. Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu, làm được việc gì có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”8. Trong buổi nói chuyện với các cháu học sinh Trường Chu Văn An, Hà Nội, Người đã đặt câu hỏi: “Học để phụng sự ai?”, rồi lại trả lời cho các cháu “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh”. Bởi thế nên Người đã yêu cầu thế hệ trẻ phải trau dồi đạo đức cách mạng, phải chăm chỉ học tập, biết thực hành “5 cái yêu” (Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công) để trở thành người kế tục sự nghiệp vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Với thanh niên, Bác dạy: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”9. Người cũng dạy: “Thanh niên bây giờ là thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác, tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ

của mình”10. Người khẳng định: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”11.

2. Nội dung cơ bản trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

2.1. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng

Coi trọng và đánh giá cao vai trò của thanh thiếu niên đối với vận mệnh đất nước, Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các thế hệ đi trước phải quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đặc biệt là việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ.

Từ cái nhìn khách quan, khoa học, Hồ Chí Minh thấy rõ cả ưu điểm và nhược điểm của tuổi trẻ - một mặt là những điều vốn có như sự thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống, thường hành động theo bản năng, thường ham chuộng hình thức, thường mắc bệnh cá nhân, bệnh “yêng hùng”...; mặt thứ hai là sự tác động trực tiếp, thường xuyên của điều kiện sống, hoàn cảnh xã hội, môi trường sống mà dễ bị thuyết phục, lay động, thiếu vững vàng về tâm lý. Vì thế, Người nhiều lần lưu ý, nhắc nhở tổ chức Đảng, đoàn thể, nhà trường, gia đình và xã hội cần phải nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện về thế hệ trẻ để giáo dục, bồi dưỡng kịp thời. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã chỉ thị thành lập Bộ Thanh niên, rồi đến Nha Thanh niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên. Bác luôn nhắc nhở các bộ, ngành ban hành chính sách nhằm giải quyết những vấn đề thuộc lợi ích, nguyện vọng chính đáng của thanh niên; tổ chức Đoàn thanh niên phải liên hệ với các lực lượng của Chính phủ, phải “liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống, công tác, học tập của thanh niên, phảitránh thành kiến, hẹp hòi, cô độc”12. Trong bài “Nâng cao trách

nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng” đăng trên báo Nhân dân số 5526, ngày 01/6/1969, Người viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc và giáo dục tốt cho các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ... Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”13. Trước lúc đi xa, Người lại dặn rằng “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng” cho thế hệ trẻ.

2.2. Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong đó bồi dưỡng, giáo dục đạo đức là yếu tố gốc

Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những hạn chế và phê phán, vạch trần bản chất chính sách ngu dân của thực dân Pháp: “Người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một tổ quốc không phải tổ quốc mình và đang áp bức mình”14, những người đến trường được “đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp”15, những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện… Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng - đó là một nền giáo dục mới nhằm mở mang dân trí và nâng cao đảng trí cho toàn dân, đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển toàn diện, vừa “hồng”, vừa “chuyên” cho công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước. Theo tư tưởng của Bác, “hồng” là người sống có lý tưởng cách mạng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sáng; không ngại khó khăn, gian khổ, phấn đấu và sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”. “Chuyên” là người có trí tuệ, năng lực chuyên môn; trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự. Trong đó, “hồng” phải được coi là gốc, là mục tiêu quan trọng “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, là rất quan trọng”. Người cho rằng: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi, nhưng lại đi đến thụt két, thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”16.

Từ quan niệm về “hồng” và “chuyên”, “đức” và “tài”, Hồ Chí Minh yêu cầu việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải chú trọng toàn diện các mặt, bao gồm thể dục, trí dục, mỹ dục, đức dục và kết hợp các nội dung trên. Người chỉ rõ:

- Thể dục: Để làm thân thể mạnh khoẻ, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung.     

- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.  

- Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.   

 - Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công17. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” được thể hiện cụ thể ở 5 nội dung sau:

- Một là, coi trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Hồ Chí Minh thường ân cần khuyên nhủ thanh niên “Chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta”18.

Trong đêm đen nô lệ, Bác kêu gọi và tổ chức thanh niên “phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập”. Khi có độc lập, tự do, Bác lại truyền cho thế hệ trẻ niềm mong mỏi một lý tưởng, ước mơ cống hiến để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

- Hai là, quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng nâng cao chí khí cách mạng cho tuổi trẻ. “Chí” là ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn để hoàn thành sự nghiệp lớn; “khí” là khí phách, khí tiết, khí thiêng sông núi, khí hùng, khí dũng trong con người.

Bác mong muốn thế hệ trẻ được trao truyền và phát huy bản sắc và truyền thống tinh thần quý báu của dân tộc. Vì vậy, Bác luôn dạy thế hệ trẻ chỉ có lý tưởng cách mạng chưa đủ, mà phải rèn luyện, tu dưỡng để có chí khí thì mới biến lý tưởng đó thành hiện thực. Kế thừa những tinh túy của chí khí truyền thống và chí khí cách mạng trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đưa những nội dung khái quát để thế hệ trẻ phấn đấu, đó là chí khí cách mạng: “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

- Ba là, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích, những người chiến sĩ tốt, người chủ xứng đáng của đất nước. Người căn dặn tuổi trẻ phải thật thà, ngay thẳng, chí công vô tư, phải coi tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp mà ai cũng thù ghét.Cùng với việc đưa ra những lời khuyên cụ thể về đạo đức cách mạng của từng giới, từng thành phần, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bao quát những phẩm chất đạo đức cách mạng mà người Việt Nam nói chung, tuổi trẻ nói riêng cần rèn luyện, tu dưỡng. Tiêu chuẩn của con người mới xã hội chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nhiều lần, có thể khái quát vào một số điểm chủ yếu là: Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: Có ý thức làm chủ; có tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa; có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; có tinh thần dám nghĩ, dám làm, vươn lên hàng đầu.Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng; có lối sống lành mạnh, trong sạch. Có tác phong xã hội chủ nghĩa: Lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm; lao động có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật; lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả; lao động quên mình không sợ khó, sợ khổ, vì lợi ích của xã hội, của tập thể và của bản thân mình. Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc mà mình đảm nhiệm, để với tư cách là công dân tham gia làm chủ Nhà nước và xã hội; phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.

- Bốn là, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật và quân sự là điều kiện cơ bản để tuổi trẻ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân và đây cũng là điều kiện để bảo đảm khả năng hoạt động thực tiễn của thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến mối quan hệ hữu cơ giữa chính trị, học vấn, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất và quân sự. Chính Người đã giải thích, nếu Chính Người đã giải thích, nếu không học tập, không có trình độ học vấn không thể nào tiếp thu được chuyên môn nghiệp vụ. Nhưng nếu chỉ học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật mà không học tập chính trị thì như người nhắm mắt mà đi.

- Năm là, giáo dục, bồi dưỡng nếp sống văn hóa và thể chất cho thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng, sự tiến bộ của xã hội. Người cho rằng, làm việc gì cũng phải có sức khỏe mới thành công. Chính vì thế, Người quan tâm đặc biệt việc giáo dục nếp sống văn hóa và thể chất cho các thế hệ cách mạng đời sau. Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã trực tiếp chỉ đạo nhân dân và thanh niên ta cần phải quan tâm thực hiện bốn việc, đó là: Công tác vệ sinh, công tác phòng bệnh, công tác thể dục thể thao và thực hiện đời sống mới.

Bác đã đề ra chủ trương chống các tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè, mê tín, dị đoan và các hủ tục khác). Đối với thanh niên, Người có yêu cầu cao trong quá trình rèn luyện, tạo dựng cho bản thân nếp sống văn hóa. Muốn vậy, phải đấu tranh chống lại “tâm lý ham sung sướng, tránh khó nhọc, chống lười biếng, chống xa xỉ, chống kiêu ngạo, khoe khoang, chống sinh hoạt ủy mị, vô kỷ luật”. Người luôn khuyến khích mọi người, nhất là thế hệ trẻ luyện tập thể dục thể thao, luyện tập thể chất, nâng cao sức khỏe phục vụ cho Tổ quốc. Người coi đó là một biểu tượng của lòng yêu nước. Năm 1946, Bác kêu gọi toàn dân tập thể dục: “Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên, luyện tập thể dục bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước…”19.

3. Phương châm giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

3.1. Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đào tạo nên những người vừa có đức vừa có tài thì “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Người thường xuyên căn dặn học tập có gắn liền với thực hành mới thực hiện được mục đích cao quý là phục vụ nhân dân. Vì thế phải tránh lối học gạo, chỉ nhằm vào những môn nhất định mà học cho tinh thông; phải gắn liền việc học chuyên môn với việc nâng cao trình độ lý luận cách mạng với sự tin tưởng và quyết tâm cao. Bằng cách nói giản dị, dễ hiểu, Người chỉ ra: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”20. Người cũng cho rằng: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”21. Nói chuyện tại Đại hội Giáo dục phổ thông toàn quốc, ngày 23/3/1956, Người khuyên nên tìm hiểu dạy cái gì, dạy như thế nào để học sinh hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh, dạy và học không được phép câu nệ, hình thức, nhồi sọ mà phải biết “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” và cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Người chỉ ra rằng để người học hiểu thấu vấn đề thì có hai cách dạy, một cách dạy thật tỷ mỷ và cách thứ hai là dạy bao quát. Nghĩa là phải chọn lấy cái gì cơ bản nhất, cốt yếu nhất mà người học không thể quên, không thể nhầm lẫn với cái khác, khi cần có thể đem ra vận dụng ngay và còn có thể bổ sung cho phong phú thêm.        

Để giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, ngay từ năm học đầu tiên nước nhà được độc lập, Bác đã dạy các học sinh lớn: “Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”22. Với các em nhỏ, Người khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào”23. Ngày 17/8/1962, khi thăm Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, Bác đã ghi vào sổ vàng của nhà trường “Phải học tập tốt, lao động tốt. Cố gắng mãi, tiến bộ mãi!”. Cũng tại đây, Bác đã tâm tình “Trước đây, vào lúc tuổi thanh niên, Bác hoạt động ở Pháp, cũng vừa lao động vừa học tập, nhưng lúc đó Bác lao động là lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn dành thì giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường học đâu. Vì vậy, Bác khuyên các cháu lao động tốt để trở thành người lao động xã hội chủ nghĩa”24.

3.2. Phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm phải giáo dục từ tuổi trẻ và giáo dục là sự nghiệp của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết quả giáo dục phụ thuộc rất lớn vào đường lối của Đảng, trách nhiệm của chính quyền, các ngành, các cấp, các đoàn thể - đặc biệt là đoàn thể thanh niên - của cha mẹ học sinh. Giáo dục trong nhà trường là vô cùng quan trọng, song đó mới chỉ là một phần, phần còn lại thuộc về vai trò của các đoàn thể nhân dân, gia đình, xã hội. Người viết: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, trường học và xã hội... Gia đình, trường học và xã hội chăm lo giáo dục, đều nhằm mục đích làm cho các em mai sau trở nên những công dân tốt, những cán bộ tốt, những người chủ tốt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”25.

Bác chỉ rõ nhiệm vụ chung của nhà trường trong chế độ mới, đồng thời nêu những nhiệm vụ cụ thể cho nhà trường “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và những cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà... Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động

và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân. Thầy giáo và học trò, tùy hoàn cảnh và khả năng, cần tham gia những công tác xã hội, ích nước lợi dân”26. Cùng với giáo dục trong nhà trường, theo Bác phải chú trọng giáo dục trong xã hội và nhất là trong gia đình. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, tế bào của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách… được hình thành, phát triển và giữ gìn, vun đắp, phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng gia đình phải phát triển bền vững. Thông qua giáo dục những tinh hoa văn hóa tốt ứng xử… Vì vậy, “phải nhấ thiết phải liên hệ mật thiết với gia đình học trò . Bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần cần có giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”27. Nhưng Bác cũng nhấn mạnh: Giáo dục gia đình không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng gia đình riêng lẻ mà phải mở rộng tác dụng ra làng xã và toàn xã hội, phải chăm lo đến cả con cái những gia đình khác trong đại gia đình của dân tộc. Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Thí dụ: những người cùng lao động trong một nhà máy, trong một cơ quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau như anh em trong một gia đình. Rộng rãi nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một gia đình. Đã là đại gia đình thì sự săn sóc, dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng cho tất cả con cháumình ngoan và khỏe. Một trong các yếu tố quan trọng trong việc bồi dưỡng đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là các đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên. Vì vậy, Bác thường căn dặn: “Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên… Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa”28.

3.3. Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nền giáo dục toàn diện phải là nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, nền giáo dục không phải chỉ dành riêng cho một số người hoặc một giai cấp mà cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Ngay sau ngày đất nước giành được độc lập, cách mạng trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, bởi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí, mọi người Việt Nam phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết. Trong “Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên” nhân dịp năm học mới, Người viết: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”29. Đồng thời, “trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt”. Người yêu cầu: Giảng viên cần phải nâng cao, mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng sinh viên, bày cho họ suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi... Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm. Bác cũng lưu ý, “dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải nghiêm túc, công khai, khách quan, phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, “không được nói gàn, nói vòng quanh”… ra, “không được nói gàn, nói vòng quanh.

4. Phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

4.1. Giáo dục phải kiên trì, khoa học

Là một nhà giáo dục lớn, Bác Hồ coi trọng việc giáo dục thế hệ trẻ không chỉ ở nội dung mà cả phương pháp dạy học và một trong những phương pháp hàng đầu là phải kiên trì, khoa học. Theo Người, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”30.

Cùng với thái độ kiên trì, nhẫn nại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh việc giáo dục thế hệ trẻ đòi hỏi một phương pháp khoa học. Theo Người, một trong những điểm thể hiện rõ phương pháp khoa học trong giáo dục là giáo dục toàn diện, nhưng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của mỗi đối tượng, lứa tuổi và giới tính. Trong “Thư gửi giáo viên, học sinh cán bộ thanh niên và nhi đồng” ngày 31/10/1955, Người chỉ ra: “Mỗi

một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này:

- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.

- Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.

- Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”31. Người cũng dạy: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học, do vậy, cách dạy trẻ phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già sớm”32.

4.2. Giáo dục phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “thực hiện giáo dục không thể tuỳ tiện... Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm, không được vội... Làm phải có kế hoạch, có từng bước. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”33. . Vì vậy, để đạt được mục tiêu giáo dục, phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó. Với trẻ nhỏ, Người cho rằng: “Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của nhi đồng”34. Với thanh niên thì phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên... Trong vui chơi cũng cần có giáo dục.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “thực hiện giáo dục không thể tuỳ tiện... Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm, không được vội... Làm phải có kế hoạch, có từng bước. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”34. Vì vậy, để đạt được mục tiêu giáo dục, phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó. Với trẻ nhỏ, Người cho rằng: “Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của nhi đồng”34. Với thanh niên thì phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên... Trong vui chơi cũng cần có

giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng.

4.3. Giáo dục gắn liền với nêu gương

Theo Bác Hồ, trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ cần gắn liền với việc nêu gương. Người chỉ rõ, nêu gương  phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, cả trong công tác và cuộc sống, cả trong lời nói và việc làm, đặc biệt là nói phải đi đôi với làm. Người từng nhắc nhở chúng ta: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”35. Người còn chỉ rõ: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Đối với tổ chức, để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Bác dạy lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức, cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới; người này có thể là gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên không những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt, mà còn phải là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy, điều quan trọng nhất là người giáo dục trẻ em phải là tấm gương sáng cho các em noi theo: “Trẻ em hay bắt chước cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách phải gương mẫu, từ lời nói đến việc làm… Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ một phần, cái chính là phải cho các cáu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”36. Bên cạnh đó, Bác cũng nhấn mạnh thế hệ trẻ cần phải noi theo các gương sản xuất, chiến đấu. Khi nói với học sinh Trường đại học Nhân dân, Người nói: ‘Trường này là Trường đại học Nhân dân, các cháu học với các thầy giáo, đồng thời phải học nhân dân. Trong bộ đội ta, trong dân công và những ngành hoạt động khác, có nhiều thanh niên gương mẫu... Mong các cháu noi theo những thanh niên kiểu mẫu ấy... để xứng đáng là lớp đầu tầu của Trường đại học Nhân dân, để rèn luyện thành chủ nhân xứng đáng tương lai của nước nhà”37.

4.4. Giáo dục gắn liền với thi đua

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề thi đua yêu nước. Người đã từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Trong sự nghiệp trồng người, Người dành sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, như phong trào “Người tốt, việc tốt” trong toàn quốc, phong trào “Dạy tốt - Học tốt” trong nhà trường, đề xuất công tác Trần Quốc Toản, phong trào “Kế hoạch nhỏ” cho các cháu thiếu niên và nhi đồng,... nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục.  

Với các cháu học sinh, Người khuyên “Các cháu nên thi đua, thi đua học tập, thi đua trong mọi việc để trở nên những nhi đồng có tổ chức, có kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng”38

Với thanh niên, Bác cũng dạy bảo cụ thể, chi tiết: “Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức là yêu nước. Phải có kế hoạch tỉ mỉ… Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực... Thi đua không nên thiên về một phía. Phải điều hoà 3 nhiệm vụ với nhau: Tăng gia sản xuất, công việc hằng ngày và học tập… Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng… Thi đua phải lâu dài và rộng khắp, không phải chỉ trong một thời gian nào (những ngày kỷ niệm là những đợt để lấy đà và để kiểm thảo, chứ không phải qua những ngày ấy rồi lại nghỉ thi đua), không phải chỉ riêng ngành nào, nhóm người nào”39.

4.5. Giáo dục phải gắn liền với xây dựng đội ngũ giáo viên tốt.

Quan tâm xây dựng và phát triển giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò của giáo viên và sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ giáo viên tốt. Đánh giá rất cao vị trí, vai trò của người thầy giáo, Người viết: “Anh chị em là những người “vô danh anh hùng”. Tuy vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em”; “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?”40. Để xứng đáng với danh hiệu cao quý và sự vẻ vang ấy, Người nhắc nhở: Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con; “phải thật thà yêu nghề mình”; “phải yên tâm công tác”. Người đề nghị mỗi người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa “hồng” vừa “chuyên”, “phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước. Phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo con em, cải tạo xã hội; phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình”.

II. Quan điểm của Đảng về giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

1. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ, tại Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (1930), Đảng ta đã khẳng định vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Cùng với việc thông qua Chính cương, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Hội nghị đã thông qua Điều lệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản. Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất đã thảo luận và thông qua nghị quyết về công tác vận động thanh niên, nghị quyết khẳng định “thanh niên lao động đã thành một lực lượng cách mạng rất quan trọng không thể không kể tới”. Để tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên vào các tổ chức để giáo dục và đưa vào cuộc đấu tranh, nghị quyết xác định “Cộng sản thanh niên Đoàn chẳng những chỉ lo một việc chính là tổ chức những chi bộ ở các sản nghiệp và các nơi khác mà thôi, mà lại phải hết sức chú ý tổ chức ra những đoàn thể phụ thuộc như là những bộ phận thanh niên trong các công, nông hội, thanh niên vệ đội, Đồng tử Quân, Thiếu niên cách mạng, ban thanh niên trong Hội phản đế, Hội thể dục…”41.

Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đề ra trách nhiệm cho mình là phải trực tiếp xây dựng đội ngũ hậu bị của Đảng, tức Đoàn Thanh niên Cộng sản. Trong Điều lệ Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản là tổ chức quần chúng duy nhất được ghi thành một chương. Điều đó một lần nữa nói lên mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa Đảng Cộng sản và Đoàn Thanh niên Cộng sản, được cụ thể hóa bằng trách nhiệm của Đảng đối với việc xây dựng tổ chức cộng sản trẻ tuổi (Đoàn Thanh niên Cộng sản) làm nguồn bổ sung lực lượng thường xuyên cho Đảng.Theo tư tưởng của Bác, Đảng ta thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn để nhìn nhận, đánh giá tiềm năng, vai trò, vị trí của thanh niên một cách khách quan, khoa học. Thực tiễn quá trình trưởng thành và phát triển suốt 86 năm qua của Đảng đã chứng minh Đảng ta luôn đặt công tác thanh thiếu niên và giáo dục thế hệ trẻ là một nhiệm vụ quan trọng.

Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), khi xác định cách mạng Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ: Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đảng ta cũng chỉ rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của thế hệ trẻ: Là lớp người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Đảng ta phải hết sức chú trọng giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng mang hết Hòa bình lập lại, non sông thu về một mối, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976), Đảng ta lại khẳng định nhiệm vụ của thế hệ trẻ Việt Nam giai đoạn này là phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, vượt qua thiên tai, đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; vững vàng, kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh biến động phức tạp của tình hình thế giới.

Thấm nhuần lời dạy của Bác về tầm quan trọng của sự nghiệp “trồng người”, năm 1979, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 14 - NQ/TW về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động, sản xuất, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ từ Đại hội VI đến Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời còn được cụ thể hóa bằng nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng, mang tính chuyên đề về giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ nói riêng. Tiêu biểu như: - Nghị quyết số 04 - NQ/TW ngày 14/01/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về “Công tác thanh niên trong tình hình mới”. Trong đó, Đảng đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong sự nghiệp đổi mới: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên”. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”. Nghị quyết đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém trong công tác giáo dục - đào tạo, trong đó nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”; đồng thời xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời dặn của Bác Hồ.

- Chỉ thị số 34 - CT/TW ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác chính trị tư tưởng; củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học”. Để thực hiện tốt định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo; chiến lược cán bộ của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp, các ngành tăng cường côngtác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng trong đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên, và công nhân viênĐoàn Thanh niên.

- Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Cùng với đánh giá những kết quả quan trọng sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã nghiêm túc nhìn nhận những hạn chế; xác định 07 quan điểmchỉ đạo trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó tiếp tục xác định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Đồng thời xác định “phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” với mục tiêu tổng quát là “tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. - Chỉ thị số 42 - CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”. Chỉ thị được Ban Bí thư ban hành ngay trước thềm Đại hội XII của Đảng, với những đánh giá quan trọng về thế hệ trẻ; xác định rõ nguyên nhân, từ đó chỉ ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ.

Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng (tháng 01/2016), Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của thế hệ trẻ và công tác giáo dục thế hệ trẻ, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ. Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.

 Như vậy, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đánh giá cao và đặt niềm tin tưởng sâu sắc vào vai trò to lớn của thế hệ trẻ, khẳng định những công lao và thành tích; xác định nhiệm vụ chăm lo, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Chính vì vậy, những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên và giáo dục thế hệ trẻ. Việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết này của Đảng đã được các cấp, các ngành, gia đình và xã hội quan tâm thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống nghĩa tình, tuân thủ pháp luật, từng bước hoàn thiện nhân cách trong thế hệ trẻ.

----------------

1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 133

2. Sách đã dẫn (Sđd), tập 4, trang 41

3. Sđd, tập 4, trang 41

4. Sđd, tập 5, trang 422

5. Sđd, tập 4, trang 167

6. Sđd, tập 10, trang 488

7. Sđd, tập 12 , trang 142

8. Sđd, tập 6, trang 300

9. Sđd, tập 7, trang 455

10. Sđd, tập 9, trang 178

11.Sđd, tập 5, trang 422

12. Sđd, tập 8, trang 263

13. Sđd, tập 12, trang 473 - 474

14. Sđd, tập 1, trang 399

15. Sđd, tập 4, trang 40

16. Sđd, tập 9, trang 178

17. Sđd, tập 8, trang 74

18. Sđd, tập 11, trang 374

19. Sđd, tập 4, trang 540

20. Sđd, tập 5, trang 472

21. Sđd, tập 5, trang 472

22. Sđd, tập 4, trang 41

23. Sđd, tập 5, trang 855

24. Sđd, tập 10, trang 590

25. Sđd, tập 8, trang 74 -75

26. Sđd, tập 8, trang 80

27. Sđd, tập 8, trang 395

28. Sđd, tập 7, trang 456

29. Sđd, tập 12, trang 410

31. Sđd, tập 8, trang 81

32. Sđd, tập 5, trang 1384

33. Sđd, tập 5, trang 423

34. Sđd, tập 5, trang 1393

35. Sđd, tập 5, trang 1021

36. Sđd, tập 9, trang 339 - 340

37. Sđd, tập 7, trang 546 - 547

38. Sđd, tập 12, trang 456

39. Sđd, tập 6, trang 270 - 271

40. Sđd, tập 11, trang 335

41. Nghị quyết về công tác vận động thanh niên tháng 10/1930 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

 

Nguồn:Sách Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên tỉnh Hưng Yên.

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin liên quan