Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta. Sau khi tìm mọi cách nhằm hòa hoãn với Pháp không thành. Để bảo vệ thành quả của cách mạng, ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Người nói: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng bắt chúng ta nhân nhượng. nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Đáp lời kêu gọi của Người, quân và dân ta từ Nam chí Bắc quyết đứng lên bảo vệ chính quyền cách mạng, đồng bào và chiến sỹ ta đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong cuộc chiến đấu ấy, nhiều đồng bào và chiến sỹ đã đổ máu, hy sinh trên các chiến trường, thương binh và liệt sỹ trở thành vấn đề lớn. Trước tình hình đó, cùng với việc kêu gọi tiếp tục giúp đỡ thương binh, gia đình tử sỹ, ngày 16/2/1947 Chủ tich Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sỹ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sỹ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Để chỉ đạo công tác này trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội nhân dân quốc gia Việt Nam) được thành lập. Đầu tháng 7 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”. Cũng trong thời gian này, tại xóm Bàn cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đại diện Tổng bộ Viêt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục, Quân đội quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27/7 hàng năm là “Ngày Thương binh toàn quốc”. Buổi chiều cùng ngày, tại xã Hùng Sơn, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức. Tại cuộc mít tinh, ông Lê Tất Đắc, đại diện Chính trị Cục, Quân đội Quốc gia Việt Nam đã đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc. Trong thư Người viết: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Từ đấy hàng năm, cứ đến ngày 27/7, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư thăm hỏi, động viên nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết sức giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ. Từ tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương Binh toàn quốc” được đổi tên thành “Ngày Thương binh, liệt sỹ”, điều đó ghi nhận sự hy sinh lớn lao của đồng bào và chiến sỹ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng, căn dặn lại bao điều hệ trọng. Phần nói về con người, về thương binh, liệt sỹ, Bác căn dặn: “Đầu tiên là việc làm đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách để làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để để họ dần dần “ tự lực cánh sinh”.
Đối với các Liệt sỹ, thì mỗi đia phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các Liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha, mẹ vợ con (của Thương binh, Liệt sỹ), thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp), phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”..
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung Đảng, ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày thương binh - Liệt sỹ” của cả nước
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng ta phần nói về chính sách xã hội đều có nội dung nói về công tác với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công…Nghị quyết Đại hôi Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội, cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình người có công, đặc biệt là những người tham gia họat động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện và khuyến khích người và gia đình người có công tích cực phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn” (1)
Thực hiện lời dạy của Bác và các nghị quyết của Đảng, trong những năm qua công tác chăm sóc Thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn quan tâm chú ý cả về vật chất và tinh thần, phần nào giải quyết những khó khăn, giúp cho cuộc sống của Thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình chính sách ngày càng tốt hơn.
Trải qua 68 năm qua, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, liệt sỹ” được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng đều đúng như mục tiêu ban đầu đề ra. Hàng năm cứ đến dịp 27/7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Điều đó thể hiện lòng “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta với những người đã vì độc lập, tự do và sự thống nhất đất nước mà hy sinh cống hiến.
Là tỉnh giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, nhân dân Hưng Yên luôn dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động và luôn có tấm lòng nhân ái, sâu sắc, đã có nhiều đóng góp quan trọng vào truyền thống hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống pháp đã tiễn đưa 34.098 người con ưu tú đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (từ năm 1955-1975), tỉnh ta lại tiếp tục tiễn đưa 88.037 người con quê hương lên đường ra trận. Kết thúc 30 năm chiến tranh tỉnh ta có 22.328 liệt sỹ, 8.238 thương binh, 28 cán bộ được Nhà nước trao tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2). Tính đến tháng 4/2015, cả tỉnh có 1.897 mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng”…
Mặc dù điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, song những năm qua, việc thực hiện chính sách đối với Thương binh, gia đình liệt sỹ luôn được chú trọng. Hàng năm vào dịp tết Nguyên đán, ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7, tỉnh đều có quà thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ và gia đình người có công; lãnh đạo tỉnh đi thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách tiêu biểu, các trung tâm nuôi dưỡng thương binh. Con liệt sỹ, thương binh được miễn giảm học phí, được cộng điểm ưu tiên khi xét tuyển vào các trường, vào biên chế nhà nước; các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống đã và đang được các cơ quan, đơn vị, tổ chức nhận chăm lo, phụng dưỡng suốt đời; nghĩa trang, đền thờ liệt sỹ ở các địa phương được xây dựng tại các vị trí trang trọng… Những việc làm đó đã phần nào bù đắp sự mất mát hy sinh, sự đóng góp của các liệt sỹ, thương binh và người có công đối với đất nước. Cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các địa phương, đơn vị, các gia đình thương binh, liệt sỹ và gia đình người có công đã cố gắng vươn lên có mức sống bằng, thậm chí có gia đình có mức sống cao hơn so với dân cư trên địa bàn, có gia đình trở lên giàu có.
“Ăn quả nhớ người trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” được thể hiện bằng những việc làm thiết thực, có hiệu quả trong thời gian qua. Điều đó thể hiện đạo lý, sự quan tâm, sự tri ân sâu sắc của Đảng, Nhà nước, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với các gia đình liệt sỹ, thương binh và người có công đối với đất nước.
Nguyễn Văn Đông
(1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN. 2011, trang 229.
(2) Hưng Yên- lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Nhà xuất bản QĐND, 2002, trang 659, 660.