Quảng trường Ba Đình lịch sử - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa_Ảnh: baochinhphu.vn
Bối cảnh lịch sử và sự khủng hoảng đường lối cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc, tạo nên hai mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với giai cấp địa chủ phong kiến. Sự áp bức, bóc lột, chà đạp quyền độc lập dân tộc ngày càng tăng, kéo theo sự phản kháng quyết liệt bằng những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các tầng lớp nhân dân.
Trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước, cách mạng Việt Nam đã trải qua một giai đoạn khủng hoảng sâu sắc về đường lối. Các phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã kết thúc sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo vào năm 1896; phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu, dù kéo dài suốt 30 năm, cũng không dành được thắng lợi. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can khởi xướng lần lượt rơi vào bế tắc; cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng thất bại. Nguyên nhân được xác định bởi những hạn chế cố hữu về tập hợp lực lượng, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng đảm đương sứ mệnh lịch sử của dân tộc, đặc biệt là chưa giải quyết triệt để được vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề giai cấp.
Chính trong bối cảnh lịch sử đầy thử thách đó, Nguyễn Ái Quốc với hành trang chủ nghĩa yêu nước, đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua hành trình khảo nghiệm gian khó tại nhiều quốc gia, từ Pháp, Mỹ, Anh đến các nước châu Phi, Mỹ Latinh, Người nhận ra rằng, các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Pháp và Cách mạng Mỹ, tuy được ca ngợi là “cộng hòa và dân chủ”, nhưng thực chất vẫn “tước lục công nông” và “áp bức thuộc địa”, không giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc để mang lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Đồng thời, Người cũng nhận thấy: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”(1). Bước ngoặt lịch sử đến vào tháng 7-1920, khi đọc “Sơ thảo những Luận cương của V.I. Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Người cho rằng Luận cương của V.I. Lê-nin đã soi sáng con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam theo cách mạng vô sản, khẳng định rằng “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(2). Từ đây, Người đã tìm thấy chân lý, đặt nền móng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng Đảng ta từng bước giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc - giai cấp
Thứ nhất, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhưng trên lập trường giai cấp vô sản
Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, vấn đề giai cấp vô sản được đặt lên hàng đầu, và sự đối kháng dân tộc sẽ mất đi khi sự đối kháng giai cấp không còn nữa, do đó giải phóng giai cấp là điều kiện để giải phóng dân tộc: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”(3). Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước Nga trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lê-nin nhấn mạnh vai trò của phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa như một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới và kêu gọi “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”(4). Tuy nhiên, V.I. Lê-nin vẫn khẳng định sự phụ thuộc của vấn đề dân tộc vào vấn đề giai cấp và lợi ích dân tộc phải phục tùng lợi ích giai cấp.
Từ thực tiễn cách mạng trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những vận dụng sáng tạo trong từng giai đoạn. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta nhận thấy rằng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, mâu thuẫn giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giai cấp, do đó, nhiệm vụ cấp bách trước mắt cho các nước thuộc địa không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành độc lập dân tộc: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong, sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(5). Do vậy: Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(6).
Tuy đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu, Đảng ta không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, khi khẳng định nhất quán, chỉ có đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc một cách triệt để, mang lại độc lập theo đúng nghĩa của từ này. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(7). Con đường cách mạng vô sản không nhằm thay thế giai cấp thống trị này bằng giai cấp thống trị khác, mà giải phóng triệt để mọi áp bức bóc lột giữa các giai cấp, đồng thời giải phóng sự áp bức dân tộc, tạo điều kiện phát triển toàn diện con người, thực hiện lợi ích cho tất cả quần chúng nhân dân lao động. Đây chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Thực tiễn cho thấy, ngay sau khi thành lập, nhờ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp - dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền thông qua ba cao trào cách mạng lớn, tạo tiền đề quan trọng dẫn tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi lịch sử này đã đập tan ách thống trị gần một thế kỷ của thực dân, chấm dứt chế độ phong kiến đã đè nặng lên nhân dân ta suốt hàng nghìn năm, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Từ đây, Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước và làm chủ vận mệnh của chính mình.
Thứ hai, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta sớm nhận định rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng Cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới, vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có khả năng xác định mục tiêu, đường lối, tổ chức vận động và tập hợp các lực lượng cách mạng. Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng, không chỉ giới hạn ở liên minh công - nông như các nhà kinh điển Mác-xít, mà phải được mở rộng: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”(8). Đảng ta chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Nền tảng cho khối đại đoàn kết này chính là “lòng yêu nước”, và tất cả những ai có lòng yêu nước, có mong muốn giải phóng dân tộc đều trở thành lực lượng cách mạng, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, vv..., để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(9).
Quan điểm này thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi đánh giá đúng đắn thái độ của các giai cấp, tầng lớp xã hội đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng ta nhận thấy rằng, mặc dù xét về lợi ích kinh tế, các giai cấp như tư sản và địa chủ là những giai cấp bóc lột, nhưng trong bối cảnh đấu tranh giành độc lập, một bộ phận như tư sản dân tộc, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tiểu tư sản... vẫn có khả năng đứng về phía dân tộc, cùng chống thực dân, phong kiến. Vì vậy, cần có thái độ linh hoạt, khôn khéo để tranh thủ, hoặc không đẩy họ về phía kẻ thù. Đây là điểm khác biệt căn bản với quan điểm “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản thời kỳ đó, khi họ tuyệt đối hóa mâu thuẫn giai cấp, đối lập hoàn toàn giai cấp công nhân với tư sản và địa chủ phong kiến, coi tất cả đều là thế lực phản động.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta tiếp tục giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp thông qua việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Để bảo vệ thành quả cách mạng, chúng ta đề ra các nhiệm vụ cấp bách, như tổ chức Tổng tuyển cử Quốc hội khóa I (6-1-1946) với chế độ phổ thông đầu phiếu, ban hành Hiến pháp 1946 và thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất (tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Những biện pháp này không chỉ củng cố chính quyền mà còn bảo đảm quyền lợi của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, đồng thời giữ vững mục tiêu giải phóng dân tộc.
Hội thảo khoa học quốc gia: “Giá trị và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945" do Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức_Ảnh: Phạm Tú
Thứ ba, giải quyết kịp thời những khó khăn của vấn đề dân tộc - giai cấp trong Cách mạng Tháng Tám
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đối mặt với nhiều khó khăn trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, vốn là hai nhiệm vụ cốt lõi để giành độc lập và xây dựng một xã hội công bằng. Những thách thức này xuất phát từ bối cảnh lịch sử phức tạp, sự phân hóa xã hội sâu sắc và sự đàn áp khốc liệt từ các thế lực thực dân, phong kiến. Đầu tiên phải kể đến khó khăn trong vấn đề dân tộc. Việt Nam thời kỳ này chịu ách thống trị của thực dân Pháp và phát-xít Nhật, đất nước rơi vào tình trạng “nước mất, nhà tan”. Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị hà khắc, bóc lột tài nguyên và đàn áp mọi phong trào yêu nước. Trong khi đó, phát-xít Nhật, sau khi vào Đông Dương năm 1940, gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, khiến hơn hai triệu người Việt Nam chết đói. Điều này làm trầm trọng thêm mâu thuẫn dân tộc, khi người dân Việt Nam không chỉ đấu tranh chống ngoại xâm mà còn phải đối mặt với khủng hoảng nhân đạo. Ngoài ra, sự chia rẽ trong nội bộ các lực lượng yêu nước, như Việt Nam Quốc dân Đảng hay các nhóm thân Nhật, thân Pháp, đã gây khó khăn trong việc thống nhất lực lượng dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh do Đảng lãnh đạo. Tiếp theo là khó khăn trong vấn đề giai cấp. Xã hội Việt Nam thời kỳ này phân hóa sâu sắc giữa các giai cấp. Địa chủ phong kiến và tư sản mại bản câu kết với thực dân để bóc lột nông dân và công nhân, tạo ra mâu thuẫn giai cấp gay gắt. Nông dân, chiếm đa số dân số, chịu cảnh bần cùng hóa, mất đất, trong khi công nhân làm việc trong điều kiện khắc nghiệt với đồng lương ít ỏi. Tuy nhiên, việc tổ chức và huy động lực lượng giai cấp công - nông gặp nhiều trở ngại do trình độ giác ngộ cách mạng còn thấp, sự đàn áp của kẻ thù, và thiếu thốn về tài chính, vũ khí. Hơn nữa, việc kết hợp hài hòa giữa cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để thu hút cả các tầng lớp trung gian như tư sản dân tộc, trí thức và tiểu tư sản cũng là một thách thức lớn, bởi các tầng lớp này thường dao động về lập trường chính trị. Ngay trong nội bộ Đảng ta cũng có nhiều vấn đề cần thống nhất khi giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp. Cụ thể, việc xác định đồng minh và kẻ thù của cách mạng rất phức tạp, bởi cần phải vừa tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác nhau để chống phát-xít Nhật và thực dân Pháp, vừa phải giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Một số ý kiến trong Đảng còn băn khoăn về việc đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu có làm mờ nhạt mục tiêu giai cấp hay không, hoặc lo ngại về việc hợp tác với địa chủ và tư sản sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của nông dân và công nhân. Sự thống nhất về đường lối và sách lược trong nội bộ Đảng lúc bấy giờ là một thách thức lớn.
Trong bối cảnh vô vàn thách thức đó, Đảng ta thể hiện sự khéo léo và bản lĩnh khi nhận thức nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, vì vậy đã đề ra chủ trương gác lại những mâu thuẫn giai cấp, tập trung mọi lực lượng cho nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Chủ trương này được thể hiện rõ trong việc thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh) vào năm 1941, là một khối đại đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, cùng chung một mục tiêu là đánh đuổi thực dân, phát-xít, giành độc lập cho Tổ quốc. Từ nhận thức này, đã giúp Đảng ta hóa giải thành công những mâu thuẫn giai cấp, lôi kéo được đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả những người đã từng lầm đường lạc lối, về với cách mạng. Đảng ta còn đề ra những chính sách phù hợp để giải quyết vấn đề ruộng đất, vấn đề dân sinh, như thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công cho dân nghèo trong những vùng giải phóng. Những chính sách này không chỉ giải quyết một phần những mâu thuẫn giai cấp, mà còn củng cố lòng tin của quần chúng, đặc biệt là tầng lớp nông dân, vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Điều này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp chúng ta làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, giành chính quyền trong cả nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Vận dụng mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong cách mạng Việt Nam hiện nay
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp vẫn là một nhiệm vụ chiến lược. Do đó, những bài học về xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp từ Cách mạng Tháng Tám vẫn giữ nguyên giá trị, cần được thực hiện tốt qua các nội dung sau:
Thứ nhất, kiên định và trung thành tuyệt đối với hệ tư tưởng của giai cấp công nhân; đồng thời giữ vững và không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Việc kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và giữ vững bản chất giai cấp công nhân giúp Đảng ta xử lý hài hòa mối quan hệ dân tộc - giai cấp, bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Đây là nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc, phát huy sức mạnh nội sinh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội một cách công bằng, dân chủ và tiến bộ, không để mâu thuẫn dân tộc - giai cấp bị lợi dụng, chia rẽ. Nội dung này được Đảng ta khẳng định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng… Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(10). Biện pháp chủ đạo là cần tiếp tục củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ trên cơ sở vận dụng đúng đắn và sáng tạo các nguyên tắc xây dựng Đảng theo tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ hai, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việc kiên định con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn lịch sử, phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(11). Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội giúp định hướng rõ ràng cho việc xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp, đặt lợi ích chung của quốc gia lên hàng đầu. Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nền tảng vững chắc để gắn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc trong một mục tiêu chung. Qua đó, hạn chế xung đột lợi ích, củng cố khối thống nhất dân tộc - giai cấp, thúc đẩy phát triển bền vững và ổn định xã hội.
"Kỷ luật và đồng tâm" (Ảnh: Phạm Thanh Tùng)_Nguồn: laodong.vn
Thứ ba, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong quá trình hội nhập quốc tế.
Việt Nam đang tham gia sâu rộng vào hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải bảo vệ chủ quyền, lợi ích dân tộc, đồng thời bảo đảm quyền lợi của người lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân và nông dân trên cơ sở: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(12). Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được thực hiện trên cơ sở giữ vững lý tưởng của giai cấp công nhân. Đảng ta luôn nhấn mạnh “bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc”. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kiên quyết chống lại chủ nghĩa cường quyền, áp đặt. Việt Nam mong muốn là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế vì hòa bình, độc lập và tiến bộ của nhân loại. Việc kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong hội nhập quốc tế giúp bảo đảm sự phát triển đồng đều, không để ai bị bỏ lại phía sau. Qua đó, góp phần xóa bỏ mặc cảm, chia rẽ giữa các tầng lớp, dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tạo điều kiện thuận lợi để xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách hài hòa, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập hiện nay.
Thứ tư, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc giải quyết các thách thức mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Việc tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, luôn gắn bó với nhân dân là yếu tố quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định trong việc định hướng, dẫn dắt toàn xã hội xử lý đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong bối cảnh mới. Trước các thách thức như phân hóa giàu nghèo, xung đột lợi ích, nguy cơ chia rẽ dân tộc - tôn giáo, vai trò của Đảng ta giúp giữ vững nguyên tắc công bằng, đoàn kết, tiến bộ. Đảng kịp thời đề ra chủ trương, chính sách phù hợp để hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp và dân tộc. Qua đó, củng cố niềm tin, sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp trong phát triển đất nước. Ngăn chặn hiệu quả âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc - giai cấp để gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái, phản động về vấn đề dân tộc - giai cấp hiện nay
Trong những năm gần đây, xuất hiện quan điểm cho rằng, lập luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp chỉ phù hợp với một số nước khác, còn tại Việt Nam, vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến thì vấn đề dân tộc luôn chi phối toàn diện; bất kỳ khi nào Đảng ta nhấn mạnh vấn đề giai cấp đều “dẫn đến sai lầm”, đặc biệt là thời kỳ trước đổi mới (?!)... Từ đó, họ đề xuất cách tiếp cận sai lệch là tách rời vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, tuyệt đối hóa vai trò của dân tộc, đồng thời xem nhẹ, thậm chí phủ nhận vai trò nền tảng của quan điểm giai cấp trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề dân tộc hiện nay. Quan điểm đó kéo theo sự xuyên tạc mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” bằng lối diễn giải phi giai cấp, phi xã hội chủ nghĩa, thực chất là phủ nhận con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Bởi lẽ, từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ sự kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước truyền thống với lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân. Thực tiễn đã khẳng định độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc và phát triển bền vững chỉ có thể đạt được khi đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh: đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm sáng rõ hơn nội dung, con đường, biện pháp để đạt tới mục tiêu đó trong điều kiện mới, với phương pháp khoa học và thực tiễn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nguyên tắc bất di bất dịch, mà còn là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển độc lập, tự chủ, toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng cho đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp. Bằng cách đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam làm nên một kỳ tích lịch sử. Những bài học từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ có giá trị trong quá khứ mà còn là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng hôm nay. Trong bối cảnh mới, khi Việt Nam đang vươn mình trong kỷ nguyên mới, việc tiếp tục kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và giai cấp, sẽ là chìa khóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.
--------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 287
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 441
(3) C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 623-624
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 198, 198-199
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 198
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr. 108
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 64
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, , t. 15, tr. 391
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 3
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 33
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 65
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 119
Nguồn:baohungyen.vn