Huyện ân Thi có diện tích đất trồng cây hằng năm là 8.189,44 ha, diện tích đất trồng lúa 8.076,9 ha. Với tổng chiều dài kênh mương toàn huyện 407.229 km, trong đó: 153,159 km do Xí nghiệp khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL) huyện quản lý; 254,07 km do xã, thị trấn quản lý (trong đó có 5,426 km kênh mương đã được kiên cố hoá). Số công trình hiện có 1.224 công trình, trong đó: 98 cống qua đê; 1.126 cầu, cống nội đồng do xã, thị trấn quản lý. Số trạm bơm hiện có 115 trạm bơm, trong đó: 30 trạm bơm do Xí nghiệp KTCTTL huyện quản lý; 85 TB do xã, thị trấn quản lý (trong đó: 77 trạm bơm chuyên tưới, 8 trạm bơm tưới tiêu kết hợp).
Theo thống kê, tổng số vi phạm công trình thủy lợi (CTTL) tính đến ngày 31/12/2013 toàn huyện là 412 vi phạm (trong đó: làm nhà kiên cố, nhà cấp 4, công trình phụ trên phạm vi bảo vệ CTTL 75 vi phạm; lều quán, lán trại 65 vi phạm; san lấp 87 vi phạm; trồng cây 19 điểm vi phạm; ách tắc dòng chảy 73 vi phạm và vi phạm khác 93 vi phạm). Theo phân cấp quản lý CTTL: vi phạm trên hệ thống CTTL do Xí nghiệp KTCTTL huyện quản lý 397 vi phạm; UBND, HTX DVNN các xã, thị trấn quản lý 5 vi phạm; Công ty THH MTV KTCTTL Bắc Hưng Hải quản lý 10 vi phạm.
Nguyên nhân vi phạm trên là do hệ thống công trình thủy lợi xây dựng từ nhiều năm không được tu bổ, sửa chữa nên đa phần bị xuống cấp; mặt khác trải rộng trên các xã, thị trấn, đi qua các khu dân cư, nên gây khó khăn cho công tác quản lý, nhiều nơi bị lấn chiếm, sử dụng sai mục đích. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định của pháp luật về bảo vệ công trình thủy lợi chưa được chú trọng. Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở còn buông lỏng quản lý, né tránh trách nhiệm, tình trạng vi phạm công trình thủy lợi diễn ra từ lâu trong thời gian dài; một số chính quyền cấp xã, thôn đã bán đất, cho thuê, đấu thầu trái thẩm quyền, vi phạm luật đất đai và pháp lệnh bảo vệ công trình thủy lợi. Việc phát hiện, phối hợp các phòng, ngành với chính quyền địa phương để ngăn chặn, xử lý vi phạm chưa chặt chẽ và kịp thời. Một bộ phận nhân dân thiếu ý thức trách nhiệm bảo vệ công trình thủy lợi, thường xuyên lấn chiếm đã gây khó khăn trong việc bảo vệ và khai thác CTTL trên địa bàn huyện.
Đứng trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy Ân Thi đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/HU ngày 06/5/2013 về việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tăng cường giải quyết, xử lý hiệu quả tình trạng vi phạm, lấn chiếm công trình thuỷ lợi trên địa bàn huyện. Sau khi có Nghị quyết số 27, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Chương trình hành động số 02 triển khai tới tất cả các xã, thị trấn, các phòng, ngành liên quan; tăng cường tuyên truyền trên hệ thống thông tin từ huyện đến cơ sở về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; việc giải quyết, xử lý tình trạng vi phạm lấn chiếm công trình thủy lợi trên địa bàn huyện đã có chuyển biến tích cực. Tính từ khi ban hành Nghị quyết 27 đến ngày 31/12/2014 trên địa bàn huyện giải tỏa được 170 vi phạm các loại, trong đó: làm nhà kiên cố trên phạm vi bào vệ công trình thủy lợi 02 vi phạm; nhà cấp 4 công trình phụ, lều quán 11 vi phạm; san lấp 55 vi phạm; trồng cây 7 điểm vi phạm; ách tắc dòng chảy 73 vi phạm và vi phạm khác (đổ đất, cầu, tường chắn, ...) 22 vi phạm (đạt 41,3%). Vi phạm giải tỏa được trên hệ thống CTTL do Xí nghiệp KTCTTL huyện quản lý 164 vi phạm; UBND, HTX DVNN các xã, thị trấn quản lý 01 vi phạm; Công ty TNHH MTV KTCTTL Bắc Hưng Hải quản lý 5 vi phạm. Tình trạng vi phạm mới phát sinh đã được ngăn chặn kịp thời ở các xã Bắc Sơn, Phù ủng, Bãi Sậy, Vân Du... UBND huyện đã chỉ đạo UBND các xã và các phòng Nông nghiệp & PTNT huyện, Xí nghiệp KTCTTL huyện phối hợp giải quyết dứt điểm ngay, không để tình trạng kéo dài, khó giải tỏa.
Như vậy, có thể thấy sau hơn một năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy Ân Thi tuy còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Huyện ủy, sự nỗ lực của các phòng, ngành, các xã, thị trấn nên việc thực hiện Nghị quyết đã đạt kết quả đáng khích lệ. Cơ bản ngăn chặn, giải tỏa dứt điểm được vi phạm mới phát sinh; xử lý, giải tỏa vi phạm gây ách tắc, cản trở dòng chảy trên các sông trục, kênh tiêu được thực hiện nghiêm túc, kênh mương đã thông thoáng, đáp ứng được yêu cầu tưới tiêu và phục vụ dân sinh. Ý thức của nhân dân về trách nhiệm bảo vệ công trình thủy lợi được nâng lên một bước, góp phần hạn chế và giảm vi phạm.
VN