Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết như sau:
(1) Việc xây dựng và cụ thể hoá Nghị quyết được Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập trung chỉ đạo khẩn trương, nghiêm túc, có sự đổi mới về nội dung và cách làm. Nghị quyết không đề cập toàn diện các mặt của công tác xây dựng Đảng, chỉ tập trung vào 03 vấn đề cấp bách nhất hiện nay để thực hiện. Đồng thời, ban hành sớm và khá đồng bộ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết ở các cấp.
(2) Đã chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc và dứt điểm việc học tập, quán triệt Nghị quyết, tạo sự thống nhất và nâng cao nhận thức, hành động trong toàn Đảng. Bộ Chính trị tổ chức hội nghị cán bộ toàn quốc để nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết với quy mô lớn nhất từ trước đến nay và tổ chức hai hội nghị với các đồng chí nguyên là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước đã nghỉ hưu, tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng. Do vậy, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn trách nhiệm, bổn phận của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc, đề cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong thực hiện Nghị quyết.
(3) Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung chỉ đạo việc nghiên cứu, cụ thể hoá, thể chế hoá nội dung Nghị quyết thành các chương trình, kế hoạch hoạt động và ban hành các quy định, quyết định, quy chế, hướng dẫn để thực hiện; đồng thời, triển khai thực hiện khá toàn diện, đồng bộ các nhóm giải pháp mà Nghị quyết đề ra. Chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể và có những đổi mới về nội dung, quy trình, cách làm trong quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình. Quá trình chuẩn bị kiểm điểm, cấp ủy lấy ý kiến góp ý của các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, các ban, ngành, đoàn thể và các đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cùng cấp bằng các hình thức phù hợp. Việc kiểm điểm tiến hành từ trên xuống dưới, tập thể trước, cá nhân sau và phát huy vai trò gương mẫu của cấp trên, người đứng đầu. Cấp ủy cấp trên rà soát, đánh giá và gợi ý nội dung kiểm điểm sâu đối với những tập thể, cá nhân có vấn đề nổi cộm; thành lập các Tổ Công tác của cấp ủy cấp trên chỉ đạo, dự và theo dõi việc kiểm điểm, nhất là ở những nơi có vấn đề nổi cộm được cấp trên gợi ý kiểm điểm...
(4) Sau kiểm điểm, cấp ủy có kết luận bằng văn bản về những ưu, khuyết điểm của tập thể và mỗi cá nhân; báo cáo kết quả kiểm điểm với cấp ủy cấp trên và trình hội nghị cấp ủy hoặc hội nghị cán bộ chủ chốt cùng cấp để đánh giá kết quả theo các tiêu chí đã quy định. Trong quá trình kiểm điểm, những vấn đề nào đã rõ thì kết luận và chỉ đạo sửa chữa, khắc phục ngay; vấn đề nào chưa rõ thì cấp ủy giao cho cơ quan chức năng thẩm tra, xác minh, làm rõ trước khi kết luận; tập thể, cá nhân nào kiểm điểm chưa đạt yêu cầu thì phải tiến hành kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại.
(5) Cấp ủy thông báo kết quả kiểm điểm và phổ biến, rút kinh nghiệm cho cấp dưới; thông báo kết quả tiếp thu ý kiến góp ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân đã đóng góp ý kiến cho tập thể và cá nhân trước kiểm điểm. Sau kiểm điểm của cấp trên, cấp ủy tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt để thông báo kết quả kiểm điểm, phổ biến kinh nghiệm, cách làm để cấp dưới học tập, noi theo. Đồng thời, cấp ủy thông báo kết quả việc tiếp thu những ý kiến góp ý của các tập thể và cá nhân đã góp ý trước khi kiểm điểm bằng các hình thức phù hợp.
(6) Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đã thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, nắm chắc tình hình, tiến độ và kết quả thực hiện Nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện sai sót, lệch lạc ở các cấp; đồng thời, bám sát thực tiễn để kịp thời bổ sung, điều chỉnh các giải pháp cho phù hợp, hiệu quả.
Theo Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, Đoàn thể năm 2016