KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Đăng ngày: 22/02/2022 - Lượt xem: 164
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, đặt trong mối quan hệ với yêu cầu tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh, toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Những quan điểm chỉ đạo đó của Đại hội là cơ sở để các cấp ủy và tổ chức đảng quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao phó.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Trọng thăm hỏi nhân dân thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên _Ảnh: Tư liệu
Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng
Đảng cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là quan điểm lớn đã được Đảng ta đề cập đến từ khi bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhất là từ khi Hội nghị Trung ương 11 khóa IX tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn qua gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, trong đó đề cập đến việc kiện toàn tổ chức và đổi mới toàn diện phương thức lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này được thảo luận tại Đại hội X của Đảng khi góp ý về tiêu đề của Báo cáo chính trị trình Đại hội, tiếp tục được thảo luận tại Hội nghị Trung ương 5 khóa X, và trong Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011). Đại hội XII của Đảng đề ra yêu cầu “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(1).
Đại hội XIII của Đảng đã nêu quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(2). Có thể khẳng định, đây là sự nhìn nhận biện chứng, thực tiễn và khoa học, xuất phát từ mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động lãnh đạo, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu với hoạt động cầm quyền, năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; điều đó được thể hiện qua các nội dung sau: 
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là quá trình tiếp nối vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền vì Đảng là lực lượng duy nhất có vai trò, sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trở thành đảng cầm quyền là một quá trình lịch sử tự nhiên và tất nhiên của Đảng.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và có hệ thống tổ chức bộ máy riêng, chặt chẽ, từ Trung ương đến cơ sở. Đảng cầm quyền nhưng Đảng không trực tiếp thực thi hay thực hiện quyền lực của các cơ quan nhà nước đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Đảng cầm quyền nhưng Đảng không trực tiếp nắm giữ, quản lý và kiểm soát các nguồn lực quốc gia, trong đó có nguồn lực tài chính. Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không trực tiếp ra các quyết định bổ nhiệm đội ngũ cán bộ của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Để thực hiện vai trò và các nội dung cầm quyền của mình, Đảng đều phải thông qua vai trò lãnh đạo của hệ thống tổ chức đảng và cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị theo quy định của pháp luật. Đảng cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và theo pháp luật.
Ba là, mục đích chiến lược lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đều là vì mục tiêu chăm lo bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Đảng là đội tiền phong lãnh đạo, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng cũng luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình để đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành thắng lợi. Trong điều kiện là đảng cầm quyền, Đảng vẫn tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực cầm quyền để lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bốn là, nội dung, phương thức lãnh đạo và nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng về cơ bản là thống nhất. Xét về lý luận, Đảng cầm quyền là Đảng thực hiện quyền lực chính trị của mình đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đảng thực hiện quyền lực của mình bằng quyền định ra đường lối, chính sách; quyền xác lập, truyền bá hệ tư tưởng nền tảng, chủ đạo trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội; quyền lựa chọn, thiết kế mô hình thể chế của chế độ chính trị - xã hội; quyền lựa chọn, giới thiệu, bố trí cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước, các cơ quan công quyền và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị... Tuy nhiên, Đảng thực thi các quyền ấy thực chất lại chính là thực thi quyền lực được nhân dân giao phó, bởi bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong tất cả quá trình thực hiện các quyền lực đó, đều có vai trò và sự tham gia của nhân dân. Hơn nữa, Đảng thực thi các quyền lực đó đều theo quy trình lãnh đạo, với các nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, từ việc ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, đến kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết quá trình thực hiện... Trong các quy trình đó, cũng đều có vai trò và sự tham gia của Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và nhân dân.
Năm là, về mặt thực tiễn, năng lực cầm quyền và năng lực lãnh đạo của Đảng đều thống nhất trong cùng một chủ thể, nằm trong cùng một thể chế chính trị với mô hình tổng thể: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; cùng hướng đến một mục tiêu, sử dụng cùng một số phương pháp, cách thức chủ yếu; cùng một đối tượng lãnh đạo, cầm quyền, đó là hệ thống chính trị, các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước đều hướng đến vì sự phát triển phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Đảng không đứng trên pháp luật, đứng trên Nhà nước và hệ thống chính trị; mà Đảng là đội tiền phong, là hạt nhân chính trị, lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội... Mối quan hệ giữa hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động cầm quyền của Đảng là quan hệ biện chứng. Đảng cầm quyền là để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi, đồng thời thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo sứ mệnh lịch sử của mình.
Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII
Với sự đồng nhất và từ mối quan hệ biện chứng nêu trên, trong thực tiễn khó có thể tách rời hoạt động lãnh đạo, năng lực lãnh đạo với hoạt động cầm quyền, năng lực cầm quyền của Đảng, cũng như khó đòi hỏi có những giải pháp riêng cho nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu hoặc giải pháp riêng cho nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Vì vậy, khi nghiên cứu, quán triệt và thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII, cần có cách nhìn tổng thể, toàn diện, không rập khuôn, máy móc, càng không nên rơi vào cực đoan, biệt phái, khi chỉ đi tìm những chủ trương, quan điểm mới về lãnh đạo hoặc cầm quyền trong Nghị quyết Đại hội để thực hiện, mà không chú trọng thực hiện những yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ và giải pháp quan trọng vốn có. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng theo đúng tinh thần Đại hội XIII, các cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có các giải pháp quan trọng sau đây: 
Thứ nhất, nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng.
Với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, mọi thành tựu và hạn chế của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước đều gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động cầm quyền của Đảng. Vì vậy, để nâng cao năng lực cầm quyền, trước hết Đảng phải nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Đại hội XIII chỉ rõ, Đảng phải đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. “Coi trọng nâng cao năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, diễn biến rất nhanh, khó lường của tình hình. Khi hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp phải bám sát và xuất phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, cân đối, bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện có hiệu quả”(3).
Về tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước, Đại hội XIII đề ra các quan điểm chỉ đạo rất quan trọng, đó là: Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Về định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Đại hội XIII xác định các nội dung cơ bản là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài; phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị về thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không trực tiếp thực hiện các quyền lực của cơ quan nhà nước, mà là Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị về thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, biến các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành các chính sách, pháp luật, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội..., đưa đường lối, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Để thực hiện tốt yêu cầu đó, Đại hội XIII nhấn mạnh: “Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện”(4).
Để đáp ứng yêu cầu trên, ngay sau khi có Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, định hướng lớn của Đảng thành các chương trình hành động của đảng đoàn, ban cán sự đảng và cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước; trên cơ sở đó, các cấp ủy đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước xây dựng, ban hành các quy định của pháp luật, các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện. Trong quá trình thực hiện, các cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ, định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết. Đại hội XIII chỉ rõ: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả”(5).
Các cấp ủy trực thuộc Trung ương và ở các địa phương cần lãnh đạo, chỉ đạo đảng đoàn, ban cán sự đảng và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị khẩn trương triển khai việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng thành các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể và lãnh đạo, chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời; sớm đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Chỉ thị số 01-CT/TW, ngày 9-3-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, chỉ rõ: “các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội khẩn trương tiến hành xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng gắn với chức năng, nhiệm vụ, phù hợp với đặc điểm tình hình và điều kiện thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị, thể hiện sự quyết tâm, sáng tạo và bảo đảm tính khả thi, thiết thực, hiệu quả”.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo bộ máy nhà nước, chính quyền các cấp trong quản lý, điều hành có hiệu lực, hiệu quả mọi hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Lãnh đạo và cầm quyền là hai quá trình hoạt động song hành và thống nhất của Đảng. Quản lý và điều hành là chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền nhà nước các cấp. Mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội có phát triển, chính trị có ổn định, trật tự, an ninh có được giữ vững hay không, phụ thuộc chủ yếu vào năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với bộ máy nhà nước thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó tiêu chí quan trọng là lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động, sự vận hành của bộ máy nhà nước theo đúng bản chất, chức năng, nhiệm vụ được quy định, vì lợi ích của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Từ thực tiễn thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng rút ra một trong năm bài học kinh nghiệm quan trọng là: “trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương”(6).
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực, hiệu quả cầm quyền của Đảng, Đại hội XIII chỉ rõ, phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các cấp, đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức. Đẩy mạnh tinh giản biên chế, cải cách quản lý biên chế theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo. Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời, phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả. “Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ; nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch”(7). Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng và thực hiện chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số. 
Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh, cần đẩy mạnh tổ chức, triển khai thống nhất, đồng bộ việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tạo chuyển biến rõ nét về trật tự, an toàn xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội; tạo môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước.
Thứ tư, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật và kiểm tra của Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng, chống nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Đảng lãnh đạo, cầm quyền để xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì cuộc sống tốt đẹp, bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo việc bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng, chống các nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nhận thức rõ những hạn chế trong chấp hành pháp luật thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng xác định tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(8). Về xây dựng và thực hiện Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp giai đoạn mới, Đại hội XIII chỉ rõ phải tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật.
Để nâng cao năng lực cầm quyền theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng, đòi hỏi cấp ủy các cấp phải nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng để phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Cụ thể là, tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, nhất là ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Ngăn chặn các nguy cơ từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với cấp dưới. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước, công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhóm nhiệm vụ nói trên. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống “chạy chức, chạy quyền”.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược của hệ thống chính trị, các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị là một nguyên tắc cơ bản, đồng thời là nội dung lãnh đạo, cầm quyền đặc biệt quan trọng của Đảng. Vì thế, để bảo đảm và nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng phải đặc biệt coi trọng và sử dụng hiệu quả nội dung lãnh đạo, cầm quyền này. Mọi ưu điểm, hạn chế ở các nội dung lãnh đạo, cầm quyền khác của Đảng đều có quan hệ chặt chẽ với năng lực lãnh đạo công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ, và hiệu quả của việc Đảng sử dụng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy của hệ thống chính trị, các tập đoàn kinh tế nhà nước, đặc biệt là bộ máy nhà nước các cấp.
Để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh mới, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(9). Đồng thời, để quản lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh về tiêu chuẩn và trách nhiệm người đứng đầu là, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, luôn đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết. Cùng với đó, các cấp ủy phải thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ giữa kỷ luật đảng với kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu; đồng thời, xây dựng cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân.
Muốn vậy, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, trước hết phải nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Bên cạnh đó, phát hiện, bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những thanh niên ưu tú trưởng thành trong phong trào lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang, tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Nghiêm túc thực hiện việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên; làm cơ sở cho việc sàng lọc đội ngũ đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Thứ sáu, nâng cao năng lực lãnh đạo xử lý các “điểm nóng” chính trị - xã hội và tình huống khẩn cấp, bất ngờ; giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác diễn biến tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhằm giành được nhiều thắng lợi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đại hội chỉ rõ: “Công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn”(10). Điều đó đòi hỏi phải xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, kiểm soát phân tầng xã hội; xử lý kịp thời, hiệu quả, dứt điểm các mâu thuẫn, xung đột xã hội, các vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài; không để hình thành các “điểm nóng” về an ninh chính trị, trật tự xã hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội ở nước ta.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, đòi hỏi Đảng phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng Đại hội XIII, cần kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Nâng cao năng lực nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tính tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
Nguồn: https://tuyengiao.vn
___________________________________________

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 217
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 325
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 232
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 180 - 181
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 199, 97
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 147
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 177
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 187
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103.

 

Tin liên quan