KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 08/11/2021 - Lượt xem: 132
Nâng cao văn hóa pháp luật để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Văn hóa pháp luật - một trong những hình thái của văn hoáóa, có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện - trụ cột cơ bản của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Văn hóa pháp luật là một trong những loại hình của văn hóa xã hội; là “tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật”(1).
Từ góc độ cấu trúc hệ thống, văn hóa pháp luật được cấu thành từ các thành tố cơ bản là: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, các thiết chế pháp luật, các phương tiện pháp luật; hành vi, lối sống pháp luật, trình độ sử dụng pháp luật. Đồng thời, từ phương diện ứng dụng trong thực tiễn đời sống nhà nước, pháp luật, văn hóa pháp luật là khái niệm chỉ một trạng thái tốt, trạng thái có chất lượng của đời sống pháp luật quốc gia, được thể hiện ở trình độ nhất định đạt được về sự hoàn thiện pháp luật, về ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật của mọi cá nhân.
Quan điểm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(2).
Hiện nay Chính phủ đang triển khai xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển con người toàn diện. Theo đó, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người văn hóa, phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là một trong những quan điểm chủ đạo trong tổng thể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, giàu lòng yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết, cần cù sáng tạo là góp phần kiến tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định rõ hơn yêu cầu về xây dựng “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” gắn với giữ gìn, phát triển “hệ giá trị gia đình Việt Nam” trong thời kỳ mới. Theo đó, bên cạnh các giá trị cốt lõi cần hướng tới như Công bằng, Quyền/quyền lợi Bình đẳng, Tự do, Khoan dung, Dân chủ; Hòa bình; Dân chủ; Tuân thủ pháp luật; trách nhiệm xã hội(3), hệ giá trị Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, hội nhập cũng cần hội tụ những giá trị cơ bản: Yêu nước; Nhân ái; Nghĩa tình; Trung thực; Sáng tạo; Dân chủ; Pháp quyền; Bản lĩnh; Trách nhiệm và Hợp tác, bảo vệ môi trường.
Nội dung cơ bản về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải bao gồm cả “xây”những phẩm chất tốt đẹp, “chống”những biểu hiện sai trái về đạo đức, pháp luật và “khắc phục” những hạn chế, yếu kém trong nhận thức, hành vi của con người Việt Nam.
Việc xây dựng con người phát triển toàn diện chính là nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển bền vững. Bởi, con người muốn phát triển toàn diện thì cần phải có những phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp lý, khoa học, kỹ thuật, có năng lực sáng tạo tốt, có ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, yêu nước, tự hào dân tộc, có lối sống văn hóa. Đồng thời nhận diện rõ và khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương xã hội, tha hóa về lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, có rất nhiều công việc, giải pháp phải thực hiện đồng bộ, trong đó, xây dựng văn hoá pháp luật một cách bền vững có vai trò đặc biệt quan trọng cả trên phương diện xây dựng và thực thi pháp luật trong cuộc sống.
Vai trò giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự định hướng cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật.
Văn hoá pháp luật góp phần tích cực trong việc điều tiết ý thức, hành vi, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật không chỉ trong các mối quan hệ của con người với nhau mà cả trong quan hệ của con người với môi trường thiên nhiên, định hướng con người đến những giá trị cốt lõi Chân - Thiện - Mỹ - Ích.
MỘT SỐ  GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp văn hoá, kinh tế, chính trị, pháp lý. Từ phương diện pháp lý, xin được đề cập một số giải pháp về văn hoá pháp luật góp phần thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Một là, kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống tuân theo pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội.
Giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật là điều kiện không thể thiếu được để hình thành hành vi hợp pháp và hợp đạo đức, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật.
Giáo dục pháp luật hướng vào việc hình thành, nâng cao thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, niềm tin của con người vào pháp luật, tôn trọng quyền, tự do, lợi ích chính đáng của con người, ý thức trách nhiệm đối với người khác, cộng đồng và xã hội. Giáo dục pháp luật còn giúp công dân biết đánh giá các hiện tượng pháp lý: tính đúng đắn hay không của một quyết định toà án, một quyết định hành chính; tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật. Làm sao cho việc phòng, chống, việc xử phạt cái ác, khuyến khích, bảo vệ cái thiện phải được thể hiện rõ nét hơn trong pháp luật và thực thi pháp luật. Đó chính là cách tốt nhất để phát huy tác động tích cực giữa pháp luật và đạo đức, đồng thời là cách tốt nhất để vừa “thượng tôn pháp luật, vừa thực hành đạo đức” trong cuộc sống hiện đại.
Không chỉ dừng lại ở những chế tài pháp luật mà phải “gõ cửa”, “đánh thức” lương tâm mỗi con người để họ thận trọng hơn, có trách nhiệm hơn về mỗi hành vi của mình. Do đó, cần tạo dư luận xã hội để lên án những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật. Đồng thời, ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những hành vi hợp pháp, hợp đạo đức. Xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật để vừa bảo vệ được đạo đức, vừa tạo điều kiện xoá bỏ những quan điểm phản tiến bộ; thúc đẩy hình thành những quan điểm, chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ.
Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật.
Một trong những nội dung cần đổi mới trong phổ biến, giáo dục pháp luật chính là sự kết hợp phổ biến, giáo dục về kiến thức pháp luật với những kỹ năng cần thiết trong thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật là cơ sở để mỗi cá nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống tuân theo pháp luật. Đưa các yếu tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong giáo dục đạo đức và ngược lại; phát triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý và nâng cao an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội.
Phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò to lớn tác động đến ý thức và hành vi hợp pháp của các cá nhân. Luật pháp muốn hiệu lực hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công quyền và những “nguyên tắc, điều luật, thiết chế” thì còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và tinh thần, để pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự tôn trọng đối với pháp luật. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải sát thực, phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội trong các lĩnh vực quan hệ xã hội.
Ba là, giáo dục ý thức về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người.
Trong nội dung giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cần trang bị kiến thức, kỹ năng thực hành văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người.
Văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người là một thể thống nhất bao gồm các thành tố cơ bản là: sự hiểu biết - kiến thức cơ bản về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, pháp lý của con người, ý thức tôn trọng quyền con người, tôn trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức; kỹ năng sử dụng, bảo vệ các quyền con người, thực hiện nghĩa vụ cơ bản, nghĩa vụ cụ thể theo quy định pháp luật.
Để xây dựng con người phát triển toàn diện, cần thiết phải xây dựng văn hoá quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm con người.
Con người phát triển toàn diện trước hết phải là con người hiểu biết các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội; tôn trọng, tuân thủ pháp luật thành thói quen, ứng xử văn hoá trong mọi hoạt động xã hội của bản thân mình.
 Có một thực tế là, khi thực hành các quyền, tự do của mình, cá nhân rất dễ rơi vào trạng thái có nguy cơ lạm dụng, lợi dụng, vượt quá giới hạn và tràn sang miền cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của những người khác và xã hội. Trên thực tế, chúng ta thấy vẫn còn sự sai lệch cả trong nhận thức và hành vi, thực hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người.
Như một tất yếu, cuộc sống càng hiện đại, khoảng không tự do càng rộng thì lại càng cần đến ý thức và thực hành trách nhiệm - bổn phận cá nhân đối với những người xung quanh, cộng đồng và xã hội. Chẳng hạn, trong cuộc chiến phòng chống đại dịch COVID-19, vấn đề trách nhiệm cá nhân con người có tầm quan trọng đặc biệt. Không chỉ quyền, tự do, không chỉ một nghĩa vụ cụ thể mà cao hơn, bền vững hơn là trách nhiệm đạo đức, pháp lý con người đối với sự an toàn và công bằng trong xã hội.
Văn hoá nói chung, văn hoá quyền con người, văn hoá nghĩa vụ, trách nhiệm con người không chỉ là những hành vi nhất thời, hình thức mà phải trở thành những thói quen ứng xử, là nhận thức và hành vi thực tế của mỗi con người trong mọi không gian, thời gian, lĩnh vực, địa bàn; phải được nhận thức, thực hành thường xuyên, mọi nơi, mọi thời điểm, trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan công quyền, cá nhân công quyền chứ không chỉ là những khẩu hiệu, báo cáo...
Giáo dục quyền con người nhằm trang bị cho con người những kiến thức cần thiết về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người, kỹ năng thực hành quyền con người, tạo lập ý thức, thói quen tôn trọng, bảo vệ quyền con người phù hợp với các nguyên tắc pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia về quyền con người.
Tạo lập một cách bền vững văn hóa quyền con người, văn hóa nghĩa vụ, trách nhiệm con người cũng chính là tiền đề, điều kiện đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
Bốn là, xây dựng văn hóa pháp luật đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Văn hóa pháp luật của cán bộ, viên chức, công chức nhà nước như một tất yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa pháp luật của các cá nhân trong đó có việc tạo lập niềm tin vào công lý và pháp luật - một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đối với đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức, trình độ văn hoá pháp luật phải được thể hiện, đo lường thông qua các tiêu chí cơ bản: trình độ hiểu biết pháp luật, bản lĩnh và kỹ năng áp dụng, thi hành pháp luật, ý thức, hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người.
Xây dựng văn hóa công vụ để hình thành một cách bền vững ý thức trách nhiệm đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao một cách trung thực, tận tuỵ, mẫn cán, cẩn trọng, tránh xung đột lợi ích, không vụ lợi cá nhân và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện. Sự tận tụy, nhiệt tình, chuyên nghiệp, thận trọng, công tâm, có trách nhiệm với con người và tổ chức, với công việc hàng ngày trong hoạt động công vụ là điều kiện cơ bản để tạo lập, vận hành nền công vụ phục vụ xã hội hiệu lực và hiệu quả.
Nội dung của xây dựng văn hóa công vụ bao hàm cả giáo dục liêm chính. Cần đưa nội dung giáo dục liêm chính vào trong giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, giáo dục quyền con người theo cách mới, gắn với chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, phòng chống tham nhũng.
Năm là, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, kịp thời trong thi hành, áp dụng pháp luật, xây dựng niềm tin pháp luật.
Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện không nghiêm minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng trong thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức và hành vi hợp pháp luật của con người. Việc thiếu niềm tin vào tính công bằng, bình đẳng và nghiêm minh của pháp luật là một trong những yếu tố làm tăng thêm chi phí tổ chức thực hiện của pháp luật(4). Max Weber đã từng nhấn mạnh rằng, một Nhà nước có hưng thịnh hay không tuỳ thuộc vào việc những đạo luật do Nhà nước ban hành có được tuân thủ hay không(5).
Sáu là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cân bằng các loại lợi ích, đơn giản,minh bạch, nhất quán, thống nhất, ổn định.
Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống, công khai, minh bạch của pháp luật và việc thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng, kịp thời sẽ là một trong những điều kiện cơ bản để tạo dựng môi trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả. Tình trạng tần suất cao về sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật, quy định pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo nhau, vi phạm nguyên tắc tính tối cao của Hiến pháp và Luật là những lực cản lớn cho việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm lý coi thường, mất niềm tin vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho những chuỗi vi phạm pháp luật ngoài vòng xử lý.
Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe và phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện các hành vi hợp pháp, giảm thiểu vi phạm pháp luật. Các chế tài nghiêm minh và những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực thi là điều kiện quan trọng có tác động mạnh mẽ đến ý thức và hành vi hợp pháp của con người.
Bảy là, xây dựng tính tích cực pháp luật, tạo lập dư luận xã hội lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật; hỗ trợ, tôn vinh những hành vi hợp pháp, có văn hóa pháp luật.
Cần tạo lập tính tích cực pháp lý, gia tăng mức độ xã hội hóa pháp luật của các cá nhân, không chỉ có tuân thủ pháp luật mà còn tích cực tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống. Tạo lập dư luận xã hội chính là một trong những biện pháp mạnh mẽ để đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, khuyến khích, hỗ trợ các hành vi hợp pháp, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh.../.
Nguồn: https://tuyengiao.vn
__________________________
(1) Lê Minh Tâm: Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Luật học, số 5/1998.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.143.
(3) Phạm Huy Đức: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 14/6/2021.
(4) Nguyễn Sĩ Dũng: Việc tổ chức thực hiện pháp luật trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10/2010.
(5) Dẫn theo: Ulrich Karpen, Những điều kiện bảo đảm hiệu quả của Nhà nước pháp quyền, đặc biệt ở các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp hoá, trong Josef Thesing (chủ biên): Nhà nước pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, tr. 335-379.
 
Tin liên quan