Thực hiện Chương trình phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy với các sở, ngành trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân năm 2015. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đăng nội dung phối hợp với Thanh tra Nhà nước tỉnh.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng được Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23/11/2012, có hiệu lực kể từ ngày 01/02/2013.
Luật này gồm 2 điều. Điều 1 gồm 25 khoản quy định cụ thể việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng. Trong đó, vừa sửa đổi, vừa bổ sung 15 điều; bổ sung mới 09 điều và bãi bỏ 01 điều. Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành và việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Sau đây là những nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống tham nhũng:
1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã quy định việc công khai, minh bạch trong các lĩnh vực. Tuy nhiên, việc công khai, minh bạch trên nhiều lĩnh vực chưa quy định rõ, nhất là công khai, minh bạch việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, quản lý tài nguyên, khoáng sản… Đây là những lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng lớn về mặt chính trị, xã hội, cần phải công khai, minh bạch để góp phần phòng ngừa tham nhũng. Vì vậy, ngoài các lĩnh vực được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành, còn các lĩnh vực khác cần phải công khai. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng đã sửa đổi, bổ sung thêm việc công khai, minh bạch trên các lĩnh vực quản lý quan trọng, cụ thể gồm:
- Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc lựa chọn hình thức công khai trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị (Khoản 2 Điều 12). Để đảm bảo việc công khai trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được thực hiện nghiêm túc, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN quy định trong trường hợp pháp luật không có quy định về hình thức công khai, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện một hoặc một số hình thức công khai là: niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử.. Ngoài ra, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể lựa chọn thêm hình thức công khai như: công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản trong đó có công khai danh mục các dự án chỉ định thầu, lý do chỉ định thầu, thông tin về nhà thầu được chỉ định; công khai danh mục các dự án đấu thầu hạn chế, lý do đấu thầu hạn chế (Khoản 2 Điều 13).
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 14). Theo đó, trong hoạt động này, phải công khai, minh bạch các nội dung sau đây:
+ Báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội; các mục tiêu, dự kiến kết quả, các nhóm hoạt động chính và đối tượng thụ hưởng trong quá trình lập dự án. Các nội dung này phải được lấy ý kiến của nhân dân địa phương nơi quy hoạch.
+ Quyết định phê duyệt dự án, kế hoạch thực hiện dự án; Báo cáo tiến độ, báo cáo kết quả thực hiện dự án, báo cáo đánh giá thực hiện dự án và báo cáo kết thúc dự án. Các nội dung này sau khi được phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám sát.
- Bổ sung quy định công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước (Khoản 7 Điều 15): cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có thu phí và lệ phí phải công khai căn cứ tính mức thu, số thu thực tế, đối tượng miễn, giảm và căn cứ miễn, giảm các khoản thu ngân sách.
- Sửa đổi, bổ sung quy định công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước về nội dung công khai và chế độ báo cáo việc công khai trong các doanh nghiệp nhà nước (Điều 18). Ngoài các nội dung công khai đã được Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định, Luật đã bổ sung thêm doanh nghiệp của nhà nước phải công khai các nội dung:
+ Vốn và tài sản của doanh nghiệp đầu tư vào công ty con, công ty liên kết;
+ Các khoản đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh chính;
+ Họ, tên, nhiệm vụ, lương và các khoản thu nhập khác của người trong Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kiểm soát viên, Kế toán trưởng.
Luật cũng bổ sung chế độ báo cáo việc công khai đối với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập; doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng thành lập và doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo hướng công khai báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, phương án, kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp. Cơ quan cử người đại diện phần vốn của Nhà nước ở doanh nghiệp có trách nhiệm công khai giá trị doanh nghiệp được cổ phần hoá và việc điều chỉnh giá trị doanh nghiệp (nếu có) (Khoản 1, khoản 2 Điều 19).
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai minh bạch trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường (Điều 21). Luật hiện hành có quy định về công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất, tuy nhiên chưa đầy đủ. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN đã bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, bao gồm công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước về đất đai; công khai minh bạch trong quản lý nhà nước về khoáng sản và tài nguyên nước; công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước về môi trường.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục (khoản 2 và khoản 3 Điều 23): Luật tiếp tục ghi nhận về công khai, minh bạch việc tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp văn bằng, chứng chỉ. Ngoài ra, đối với cơ quan quản lý giáo dục không chỉ phải công khai việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước mà còn phải công khai cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nguồn lực tài chính cho hoạt động giáo dục; khoản hỗ trợ, các khoản đầu tư cho giáo dục và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Cơ sở giáo dục công lập phải công khai cam kết chất lượng giáo dục và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục; điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; việc thu, quản lý, sử dụng học phí, lệ phí tuyển sinh, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, khoản hỗ trợ, đầu tư cho giáo dục và khoản thu, chi tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Bổ sung thêm các điều quy định về công khai, minh bạch trong lĩnh vực văn hoá, thông tin và truyền thông (Điều 26a); nông nghiệp và phát triển nông thôn (Điều 26b); việc thực hiện chính sách an sinh xã hội (Điều 26c); việc thực hiện chính sách dân tộc (Điều 26d). Đây là những lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng quan trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội, nên cần phải được công khai, minh bạch.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong công tác tổ chức – cán bộ (Điều 30). Theo đó, bổ sung các hoạt động khác trong công tác tổ chức, cán bộ cũng phải được công khai như: việc bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, công chức; nâng ngạch, biệt phái; nâng lương, thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; việc thành lập, chia tách, giải thể các đơn vị trực thuộc.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân (khoản 3 Điều 30): Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu phải cung cấp thông tin; trường hợp chưa cung cấp hoặc nội dung được yêu cầu đã được công khai thì phải trả lời cho người yêu cầu biết.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình (Điều 32a).
Để tăng cường hiệu quả của việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Luật bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung trên nhằm đảm bảo việc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đi vào thực chất hơn và tăng cường tính liêm chính trong hoạt động công vụ thông qua quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân và trách nhiệm giải trình của cơ quan khi có yêu cầu.
2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về minh bạch tài sản, thu nhập
Thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Luật sửa đổi, bổ sung các quy định phạm vi công khai bản kê khai tài sản, giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm, xác minh tài sản.
- Bổ sung quy định về công khai bản kê khai tài sản (Điều 46a): Việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập có vai trò quan trọng nhằm giúp tạo ra những kênh giám sát, đánh giá khách quan về tính trung thực trong việc kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Vì vậy, Luật đã bổ sung quy định về công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc. Người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức quyết định việc công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết bản kê khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Thời điểm công khai được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 3 hằng năm. Trường hợp công khai bằng hình thức niêm yết thì phải bảo đảm thời gian tối thiểu là ba mươi ngày liên tục.
Đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bản kê khai tài sản phải được công khai tại hội nghị cử tri nơi công tác của người đó.
Đối với người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân, bản kê khai tài sản phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.
- Bổ sung quy định về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm (Điều 46b).
Trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm là vấn đề mà Nghị quyết Trung ương 3 khoá X đã đề ra. Thể chế hóa quan điểm này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN quy định người kê khai tài sản có nghĩa vụ giải trình nguồn gốc phần tài sản tăng thêm quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật này. (Khoản 2 Điều 44 quy định: người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên).
Quy định này nhằm kiểm soát các trường hợp làm giàu bất chính có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng của người có nghĩa vụ kê khai.
Giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm là vấn đề phức tạp, cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo cho việc thực hiện trên thực tế được thống nhất. Do đó, Luật giao Chính phủ quy định mức giá trị tài sản tăng thêm và việc xác định giá trị tài sản tăng thêm, thẩm quyền yêu cầu giải trình, trách nhiệm của người giải trình, trình tự, thủ tục của việc giải trình.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xác minh tài sản (Điều 47). Theo đó, xác định rõ 4 căn cứ để xác minh tài sản, bao gồm:
+ Khi có tố cáo về việc không trung thực trong kê khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai;
+ Khi xét thấy cần có thêm thông tin phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản;
+ Khi có căn cứ cho rằng việc giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm không hợp lý;
+ Khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quy định tại Điều 47a của Luật này.
Khi có một trong những căn cứ nêu trên thì người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ kê khai tài sản ra quyết định xác minh tài sản.
- Để việc thực hiện các biện pháp minh bạch về tài sản đi vào thực chất, đảm bảo khách quan, chặt chẽ, Luật đã bổ sung quy định về thẩm quyền yêu cầu xác minh tài sản (Điều 47a). Theo đó, xác định rõ các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu xác minh tài sản như: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân; cơ quan thường vụ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh; Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử, Ủy ban mặt trận tổ quốc…Cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền yêu cầu xác minh tài sản nếu trong quá trình tiến hành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát có kết luận về trách nhiệm của người có nghĩa vụ kê khai tài sản liên quan đến hành vi tham nhũng.
3. Bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát hiện và xử lý vụ việc tham nhũng, Luật bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý trực tiếp có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng hoặc theo yêu cầu của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì phải tạm đình chỉ hoặc tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác để phục vụ cho việc xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng (Điều 53a). Đây là các biện pháp tạm thời cần thiết phải áp dụng, xuất phát từ yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức, Luật quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức phải hủy bỏ quyết định và thông báo công khai với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức về việc hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác hoặc tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác và khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức sau khi cơ quan có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.
Luật cũng bổ sung khoản giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ, chuyển vị trí công tác khác; việc hưởng lương, phụ cấp, quyền, lợi ích khác và việc bồi thường, khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.
4. Về Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng
Luật sửa đổi bãi bỏ Điều 73 của Luật PCTN. Điều 73 Luật PCTN quy định Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Giúp việc cho Ban chỉ đạo trung ương về PCTN có bộ phận thường trực hoạt động chuyên trách.
Tuy nhiên, tại Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu: “ở Trung ương, thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban”.
Trên cơ sở Kết luận số 21-LK/TW, xác định Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng là cơ quan của Đảng, không phải là cơ quan nhà nước, cho nên Luật sửa đổi không quy định về việc thành lập, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của cơ quan này. Do đó, Luật bãi bỏ Điều 73 và bỏ cụm từ “Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng” tại Khoản 4, Điều 55 Luật phòng, chống tham nhũng.