Thực hiện Chương trình phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy với các sở, ngành trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân năm 2015. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đăng nội dung phối hợp với Thanh tra Nhà nước tỉnh.
Luật Tố cáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11/11/2011. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012.
1. Về phạm vi điều chỉnh
Để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về quyền tố cáo của công dân cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải quyết tố cáo, Luật tố cáo quy định đối với 2 nhóm hành vi vi phạm pháp luật: một là, quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; hai là, quy định tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
2. Hình thức tố cáo (Điều 19):
Kế thừa quy định của Luật khiếu nại, tố cáo, Luật tố cáo tiếp tục ghi nhận 2 hình thức tố cáo: tố cáo trực tiếp và gửi đơn tố cáo.
Trường hợp tố cáo bằng đơn: trong đơn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo;
Trường hợp tố cáo trực tiếp thì người tố cáo hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc ghi lại việc tố cáo bằng văn bản, yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ vào bản ghi nội dung tố cáo.
Vấn đề nhiều người cùng tố cáo: Điều 19 Luật Tố cáo quy định:
Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của từng người tố cáo; họ tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo.
Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo.
Trên cơ sở của Luật tố cáo, Nghị định 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật tố cáo quy định chi tiết vấn đề này như sau:
Về số lượng người đại diện (Điều 4 Nghị định 76):
Để làm rõ trong trường hợp nào thì cử đại diện để trình bày tố cáo, Nghị định đã quy định từ 05 người trở lên cùng tố cáo về một nội dung thì cử đại diện để thực hiện việc tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Người đại diện phải là người tố cáo.Trường hợp có từ 05 đến 10 người tố cáo cùng nội dung thì cử 01 hoặc 02 người đại diện; Trường hợp có từ 10 người trở lên thì có thể cử thêm người đại diện nhưng tối đa không quá 05 người.
Về văn bản cử đại diện ( Điều 5 Nghị định 76)
- Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn về một nội dung thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người đại diện. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo trực tiếp về một nội dung thì phải cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo. Việc cử đại diện để trình bày tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản.
- Văn bản cử người đại diện tố cáo phải có những nội dung sau: Ngày, tháng, năm; họ tên và địa chỉ của người đại diện; nội dung được đại diện; chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; các nội dung khác có liên quan (nếu có).
Về trách nhiệm phối hợp xử lý trong trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung (từ Điều 6 đến Điều 10 NĐ 76)
Nhằm xử lý tình trạng nhiều người cùng tố cáo về một nội dung đang diễn ra khá phức tạp trên thực tế, Mục 2 chương II Nghị định 76 quy định phối hợp xử lý nhiều người cùng tố cáo về một nội dung ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo đến các cơ quan Trung ương (Từ Điều 6 đến Điều 9). Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng cơ quan nơi có người tố cáo tập trung, Thủ trưởng cơ quan Công an, người phụ trách công tác tiếp công dân hoặc phụ trách Trụ sở tiếp công dân và Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc phối hợp xử lý vụ việc nhiều người khiếu nại. Các cơ quan chức năng này, tùy theo chức năng của mình, có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ như: tiếp đại diện của những người tố cáo; giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu; thụ lý, giải quyết đối với tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc hướng dẫn người tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; vận động, thuyết phục để công dân trở về địa phương; đảm bảo trật tự công cộng; xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Nghị định cũng quy định trách nhiệm của Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh trong việc phối hợp xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo. (Điều 10).
3. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo
- Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo:
So với Luật khiếu nại, tố cáo, Luật tố cáo đã quy định bổ sung người tố cáo có thêm các quyền như:
+ Quy định việc giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác là quyền đương nhiên của người tố cáo và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để bảo đảm quyền này của người tố cáo.
+ Yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo thì người tố cáo còn được yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
+ Tố cáo tiếp;
+ Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
. Nghĩa vụ của người tố cáo:
+ Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình
+ Trình bày trung thực nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được;
+ Chịu trách nhiệm trước PL về nội dung tố cáo của mình
+ Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
- Quyền, nghĩa vụ của người bị tố cáo
So với Luật khiếu nại, tố cáo, Luật tố cáo đã bổ sung quy định người bị tố cáo có quyền được nhận thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; được xin lỗi, cải chính công khai do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.
- Quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo
Luật tố cáo đã quy định một điều về quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo (Điều 11). Theo đó, người giải quyết tố cáo có các quyền:
+ Yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;
+ Yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo;
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;
+ Tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật;
+ Áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật;
+ Kết luận về nội dung tố cáo;
+ Quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Người giải quyết tố cáo có các nghĩa vụ (K2 Đ 11):
+ Bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo;
+ Áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin có liên quan đến việc tố cáo;
+ Không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo;
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết tố cáo;
+ Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi giải quyết tố cáo trái pháp luật của mình gây ra.
4. Về giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ
4.1. Thẩm quyền giải quyết
- Nguyên tắc xác định thẩm quyền
Kế thừa quy định của Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ được quy định cụ thể hơn. Điều 12 Luật tố cáo năm 2011 quy định như sau:
“1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.”
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước
Để cụ thể hoá nguyên tắc trên, Điều 13 Luật quy định cụ thể, chi tiết về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. Theo đó, Điều 13 Luật tố cáo đã quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và thẩm quyền giải quyết tố cáo của Thủ tướng Chính phủ.
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ khác
Ngoài quy định cụ thể hơn về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan hành chính thì Luật tố cáo năm 2011 còn quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức (Điều 14, 15, 16, 17).
4.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
- So với Luật khiếu nại, tố cáo, Luật Tố cáo đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo, bao gồm các bước sau (Điều 18):
+ Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
+ Xác minh nội dung tố cáo;
+ Kêt luận nội dung tố cáo;
+ Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
+ Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
- Việc tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo:
Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:
Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày.
Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
Người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo trong các trường hợp: tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới; tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật; tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện kiểm tra, xác minh về hành vi vi phạm, người vi phạm pháp luật.
- Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo:
Luật tố cáo đã quy định cụ thể, rõ ràng về xác minh nội dung tố cáo: người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiến hành xác minh hoặc giao cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo; trường hợp giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo thì người giải quyết tố cáo phải giao việc xác minh bằng văn bản. Đồng thời, Luật tố cáo cũng đã quy định cụ thể, rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người xác minh nội dung tố cáo.
- Việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo:
Điều 25 Luật tố cáo quy định: sau khi có kết luận nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo tiến hành xử lý như sau:
Trường hợp kết luận người bị tố cáo không vi phạm các quy định pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo bị xâm phạm do việc tố cáo không đúng sự thật gây ra, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật.
Trường hợp kết luận người bị tố cáo vi phạm các quy định trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hành vi vi phạm của người bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Việc tố cáo tiếp, giải quyết vụ việc tố cáo tiếp:
Điều 27 Luật tố cáo quy định việc tố cáo tiếp, các điều kiện để tố cáo tiếp và việc xem xét, giải quyết của cơ quan, tổ chức cấp trên. Theo đó, khi quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết.
Đối với trường hợp quá thời hạn mà tố cáo không được giải quyết thì người đứng đầu cơ quan cấp trên yêu cầu người có trách nhiệm giải quyết tố cáo phải giải quyết, trình bày rõ lý do việc chậm giải quyết tố cáo; có biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo.
Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo.
Trường hợp việc giải quyết của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo đúng trình tự Luật tố cáo quy định.
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo
Để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, Luật tố cáo đã quy định một số nội dung mới về công khai nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Việc công khai này phải đảm bảo không tiết lộ thông tin về người tố cáo và những nội dung thuộc bí mật nhà nước (Điều 30).
Thực hiện việc quy định chi tiết nội dung này, Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định cụ thể về hình thức công khai, thời gian công khai kết kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo(Điều 11 NĐ).
5. Giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
5.1 Thẩm quyền giải quyết
Điều 31 Luật tố cáo đã quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Theo đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
5.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
Luật tố cáo quy định việc tiếp nhận, phân loại, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, quyết định việc xử lý tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được thực hiện như đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trừ trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay.
Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay thì việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự:
- Người có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
- Trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực mà mình quản lý, người tiếp nhận tố cáo phải trực tiếp tiến hành hoặc báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiến hành ngay việc xác minh nội dung tố cáo, áp dụng các biện pháp cần thiết để đình chỉ hành vi vi phạm và kịp thời lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật (nếu có); việc xác minh, kiểm tra thông tin về người tố cáo được thực hiện trong trường hợp người giải quyết tố cáo thấy cần thiết cho quá trình xử lý hành vi bị tố cáo;
- Người giải quyết tố cáo ra quyết định xử lý hành vi vi phạm theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
6. Bảo vệ người tố cáo
Luật tố cáo đã quy định một chương (Chương V: từ Điều 34 đến Điều 40) về bảo vệ người tố cáo, bao gồm bảo vệ bí mật, thông tin về người tố cáo; bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú, nơi công tác, làm việc, học tập, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo. Đối tượng bảo vệ gồm người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Thời hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ.
Luật xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, người tố cáo được bảo vệ cũng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo Điều 35 Luật tố cáo.
Để quy định chi tiết nội dung bảo vệ người tố cáo theo yêu cầu của Luật Tố cáo, Chương III Nghị định số 76/2012/NĐ-CP đã quy định các biện pháp cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ người tố cáo, bao gồm bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo (từ Điều 12 đến Điều 13NĐ); bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo (từ Điều 14 đến Điều 16 NĐ); bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo (Điều 17, 18).
Trường hợp người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động mà không phải là viên chức, Điều 18 Nghị định quy định các biện pháp bảo vệ như yêu cầu người sử dụng lao động chấm dứt hành vi vi phạm; khôi phục vị trí công tác, việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người được bảo vệ; kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
7. Khen thưởng và xử lý vi phạm
- Về việc khen thưởng
Luật tố cáo quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật chất, tinh thần.
Quy định chi tiết vấn đề này, chương IV Nghị định 76/2012/NĐ-CP đã quy định về việc khen thưởng người có thành tích trong việc tố cáo (hình thức khen thưởng, tiêu chuẩn khen thưởng, hồ sơ, thủ tục khen thưởng, quỹ khen thưởng và mức thưởng (Từ Điều 19 đến Điều 24).