Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta là nhân tố mang ý nghĩa quyết định đối với Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi đó đi vào lịch sử dân tộc như một trang vàng chói lọi nhất, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn, có tính thời đại sâu sắc, để lại nhiều bài học quý giá đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng về đường lối cách mạng
Một là, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận về bạo lực cách mạng trong điều kiện mới.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận về bạo lực cách mạng trong điều kiện mới, đưa hình thức khởi nghĩa, nổi dậy của quần chúng vào trong chiến tranh, làm cho sức mạnh của chiến tranh cách mạng tăng lên gấp bội.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 khóa 2 (tháng 1-1959) khẳng định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng, thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”(1). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 chính là “ý Đảng hợp với lòng dân”, lập tức tạo nên một phong trào Đồng Khởi (năm 1960) rộng lớn ở miền Nam làm lung lay gốc rễ chính quyền địch ở cơ sở.
Với đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành liên tiếp nhiều thắng lợi to lớn, làm sụp đổ các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27-1-1973. Theo Hiệp định, quân đội Mỹ phải đơn phương rút quân khỏi nước ta. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự, chỉ đạo chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định vừa ký kết, mở hàng ngàn cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm”, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Chính phủ Mỹ còn thi hành chính sách ngoại giao xảo quyệt, thỏa thuận với các nước lớn xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, gây áp lực hạn chế thắng lợi của cách mạng Việt Nam... Chỉ tính riêng năm 1973, chính quyền Sài Gòn đã có 301.097 hành động vi phạm Hiệp định, trong đó có 34.266 cuộc hành quân lấn chiếm, 216.550 cuộc hành quân bình định. Không những thế, đế quốc Mỹ tiếp tục duy trì lực lượng không quân và hải quân ở các vùng phụ cận Việt Nam để “ngăn đe”, kết hợp tăng cường các hoạt động ngoại giao xảo quyệt, nhằm kiềm chế sự phát triển của cách mạng nước ta.
Bên cạnh đó, một số cấp ủy, địa phương do biểu hiện mơ hồ, thiếu cảnh giác, để địch mở rộng lấn chiếm nhiều vùng giải phóng. Nhận định đúng tình hình, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã ban hành Nghị quyết số 227-NQ/TW, ngày 13-10-1973, về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”(2).
Đảng ta chủ trương tiếp tục con đường cách mạng bạo lực sau Hiệp định Pari để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không chỉ là yêu cầu khách quan, vấn đề có tính quy luật, mà còn thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược cùng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hai là, quyết đoán tận dụng thời cơ, tạo thời cơ chiến lược kết thúc chiến tranh
Nếu như trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng biết chuẩn bị lực lượng một cách chu đáo và khi thời cơ nổ ra biết chớp lấy thời cơ, thì đến cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, Đảng đẩy nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, nghệ thuật chớp thời cơ lên một bước. Đồng chí Lê Duẩn đánh giá: “Chúng ta buộc địch ký Hiệp định Paris có nghĩa là ta mạnh hơn địch, đủ sức thắng cả Mỹ lẫn Nguỵ. Khi Mỹ còn ta đã giành được thắng lợi như vậy thì sau khi Mỹ rút hết, ta càng mạnh hơn và nhất định sẽ đánh thắng hoàn toàn quân Ngụy”(3).
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, trên cơ sở đó, từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Bộ Chính trị (mở rộng) với sự tham gia của các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu họp (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, Bộ Chính trị khẳng định: Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc(4).
Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975, Bộ Chính trị họp đợt hai, tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị đi sâu phân tích so sánh lực lượng trên chiến trường, khẳng định: “Phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976... Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”(5).
Một cuộc họp của Bộ Chính trị tại Tổng Hành dinh Quân đội Nhân dân Việt Nam (Nhà D67) quyết định đặt tên Chiến dịch Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh_Nguồn: baovanhoa.vn
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh giá đúng thực chất tình hình, nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để hạ quyết tâm chiến lược chính xác, khi có thời cơ phải nắm lấy thời cơ, nếu bỏ lỡ thời cơ thì có tội với dân tộc.
Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, một vấn đề có ý nghĩa then chốt đối với thành công của toàn bộ chiến tranh là chọn hướng tiến công chủ yếu và trận mở đầu ở đâu để bảo đảm chắc thắng, nhanh gọn giành được yếu tố bất ngờ, từ đó chọn được thế chiến lược, làm thay đổi toàn bộ cục diện chiến trường. Đầu tháng 2-1975, sau khi cân nhắc các phương án, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xác định, chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975, xác định trận tiến công mở màn là Buôn Mê Thuật nơi địch nhiều sơ hở nhất. Đúng như dự kiến của Đảng, chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi giòn giã.
Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp trong bối cảnh chiến trường đang chuyển biến, đưa ra nhận định ta có khả năng giành thắng lợi lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến; từ đó, Bộ Chính trị chủ trương hoàn thành giải phóng hoàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975 và xác định hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Với quyết tâm đó, trên thực tế, cuộc tiến công chiến dịch đã chuyển thành cuộc tiến công chiến lược. Quyết tâm giành thắng lợi trong năm 1975 rõ ràng là một nét đặc sắc trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng, không chỉ dừng lại ở bước nắm vững thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược đúng đắn mà khi thời cơ xuất hiện, nhanh hơn dự kiến đã kịp thời nắm bắt, chỉ đạo chiến lược sắc bén, kịp thời giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ.
Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp và nhận định, thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Hội nghị kết luận: Cách mạng nước ta đang trên đà phát triển sôi động nhất với nhịp độ “Một ngày bằng 20 năm”. Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 4-1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Như vậy, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình giữa ta và địch, bằng sự nỗ lực vượt bậc trong việc tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, chớp thời cơ, dự kiến đúng tình thế phát triển của tình hình, quyết đoán nắm thời cơ, kịp thời chọn hướng đúng, hạ quyết tâm chiến lược chính xác. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quân và dân ta thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ trong 55 ngày đêm, ta đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra trong hai năm 1975 - 1976, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Ba là, nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo.
Chủ động mở đầu và kết thúc chiến tranh là nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Sau Hiệp định Paris, bằng sự phân tích tỉnh táo và khoa học tình hình thực tế, Đảng sớm dự đoán hai khả năng, nỗ lực tranh thủ khả năng giành thắng lợi bằng phương pháp hòa bình, đồng thời chủ động sẵn sàng đối phó với khả năng chiến tranh. Tranh thủ khả năng hòa bình, Đảng kịp thời chỉ đạo cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Paris, duy trì cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, kiên quyết lên án và trừng trị những hành động phá hoại hiệp định của Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đó là quá trình kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, tiếp tục làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường và tạo dư luận quốc tế có lợi cho cách mạng.
Từ cuối năm 1974, khi tình hình chiến trường, tình hình quốc tế và nước Mỹ đã biến chuyển thuận lợi, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Trước tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị (từ ngày 30-9 đến ngày 7-10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975) đã ra nghị quyết lịch sử, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, trong thời gian 2 năm (1975 - 1976). Tuy đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng Bộ Chính trị cũng chỉ rõ, nếu thời cơ đến sớm thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Về phương hướng, yêu cầu đặt ra, Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần tranh thủ thời cơ thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa, phải đánh thắng nhanh để giảm thiệt hại về người và của cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Đây thực sự là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư tưởng và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam.
Để chuẩn bị kết thúc chiến tranh, Đảng chủ trương tập trung tất cả mọi lực lượng, đặc biệt là lực lượng quân sự. Trước mùa Xuân năm 1975, quân đội ta tiến lên tổ chức các quân đoàn(6). Đó là quyết định đúng về tổ chức quân đội phù hợp với quy luật đấu tranh vũ trang: từ tác chiến quy mô sư đoàn chống thực dân Pháp, sang tác chiến bằng các quân đoàn, binh chủng hợp thành trong chống đế quốc Mỹ. Trong cả chiến dịch mùa Xuân năm 1975, Đảng tập trung hầu hết các quân đoàn vào trận quyết chiến, chỉ để lại một sư đoàn ở lại bảo vệ miền Bắc và làm dự bị chiến lược. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng cách đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn, đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài, không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2-5-1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi vẻ vang đã khẳng định cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 thể hiện sự chủ động, sáng tạo của Đảng ta trong việc kết thúc chiến tranh. Mở đầu bằng việc chọn hướng tiến công chiến lược đúng, chỉ đạo cách đánh đúng, nắm bắt nhanh diễn biến chiến trường và nhạy bén trước mọi thái độ của địch, liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược với nhịp độ phát triển cực nhanh và yếu tố bất ngờ, sự táo bạo của cuộc tổng tiến công. Nét nổi bật là tạo thời cơ, tận dụng thời cơ, thúc đẩy thời cơ, đẩy nhanh tốc độ tiến công cao chưa từng có, giảm được thương vong của bộ đội và nhân dân.
Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 50 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước_Ảnh: Tư liệu
Bài học cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay
Với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thắng lợi khát vọng giải phóng dân tộc, độc lập, thống nhất Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Để tiếp tục hiện thực khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045, những kinh nghiệm quý báu từ Đại thắng mùa Xuân 1975 có ý nghĩa sâu sắc, để vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần được phát triển nâng cao trong quyết tâm chống nghèo nàn, lạc hậu, từng bước khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các quốc gia, dân tộc khác trong khu vực và thế giới; quyết tâm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đề phòng nguy cơ chệch hướng; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đe dọa làm sai lệch bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, chống nguy cơ “tự diễn biến” và bị “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa và loại trừ mầm mống bạo loạn, lật đổ; sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Thứ hai, Đảng phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn, phù hợp sự phát triển của thời đại. Đường lối đổi mới phải phản ánh đúng những đặc điểm về hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đó là con đường làm cho chủ nghĩa xã hội ăn sâu, bám rễ vào đất nước và con người Việt Nam, vào truyền thống, bản sắc, lịch sử, kinh nghiệm, nền văn hóa, văn minh của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, chủ động, quyết đoán trong việc tận dụng thời cơ đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới. Hiện nay, toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đã đem lại những thời cơ, vận hội, đồng thời cũng làm xuất hiện cả những thách thức, nguy cơ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là cần nhận diện rõ và có những chiến lược hợp lý, tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển.
Thứ tư, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh của khu vực và thế giới vừa đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhân dân ta, dân tộc ta giương cao ngọn cờ hòa bình, kiên trì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; tăng cường đối thoại, đẩy lùi đối đầu, xử lý linh hoạt vấn đề đối tác, đối tượng, gác lại quá khứ, nhìn về tương lai, thực hiện đoàn kết, bình đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và bảo vệ hòa bình ở mỗi quốc gia, dân tộc, khu vực và trên thế giới./.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn
---------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 82
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 34, tr. 232
(3]) Phan Định (chủ biên): Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, t. 2, tr. 178
(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 185
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 6
(6) Quân đoàn Quân đoàn 1 thành lập ngày 24-10-1973; Quân đoàn 2 thành lập ngày 17-5-1974; Quân đoàn 4 thành lập ngày 20-7-1974; Quân đoàn 3 thành lập ngày 26-3-1975