KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Đăng ngày: 18/10/2022 - Lượt xem: 178
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, làm căn cứ để đánh giá và rà soát, sàng lọc cán bộ

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm soát quyền lực, nhất là quyền lực của người đứng đầu cấp ủy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; qua đó, có cơ sở để đánh giá và rà soát, sàng lọc cán bộ một cách hiệu quả.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm và làm việc với Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn: sggp.org.vn
Tính cấp thiết của việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy
Người đứng đầu cấp ủy có vai trò đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, là người thường xuyên đưa ra những quyết định liên quan trực tiếp đến hoạt động và sự phát triển của tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Chính vì có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng, nên người đứng đầu cấp ủy cần phải được đào tạo, rèn luyện, tu dưỡng và thử thách để có đủ năng lực, phẩm chất, bản lĩnh, uy tín, thực sự trở thành “đầu tàu” trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền”(1).
Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy là yêu cầu tất yếu trong thời kỳ mới, nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm soát quyền lực, nhất là quyền lực của người đứng đầu cấp ủy. Đồng thời, đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; kịp thời phát hiện những nhân tố mới, tích cực để phát huy, bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; kịp thời phát hiện để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, xử lý vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng; tạo điều kiện để người đứng đầu cấp ủy phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị, địa phương, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; khắc phục tình trạng thụ động hoặc đùn đẩy trách nhiệm, làm căn cứ để đánh giá, rà soát và sàng lọc cán bộ. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng”(2).
Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả ngày càng được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, có không ít cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, cán bộ chủ chốt của các bộ, ban, ngành, đơn vị, địa phương vi phạm kỷ luật của Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật. Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên; Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng viên(3). Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên(4), nhất là người đứng đầu cấp ủy. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu cấp ủy trong các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương với tư cách là đội ngũ nắm giữ quyền lực chính trị hàng đầu của hệ thống chính trị, góp phần củng cố sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ_Ảnh: TTXVN
Những nguyên tắc cơ bản của việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy
Thứ nhất, trong công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy các cấp, phải tuân thủ Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng về công tác cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm chính trị của người đứng đầu cấp ủy, thực hiện nghiêm tinh thần thượng tôn pháp luật. Kịp thời phát hiện và nhân rộng các nhân tố mới, tích cực, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; đồng thời, chủ động và kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm những biểu hiện vi phạm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài.
Thứ hai, thực hiện đầy đủ các quy định kiểm tra, giám sát trong Đảng nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung; tập trung kiểm tra, giám sát người đứng đầu và cấp ủy về: 1- Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; 2- Việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hành dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; 3- Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quản lý, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên; 4- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; 5- Việc lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; 6- Việc tuyển dụng, tiếp nhận, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, nâng ngạch, bố trí, sử dụng, giới thiệu ứng cử, bầu cử, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ; 7- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đặc biệt, chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy trong thực hiện tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát tinh thần trách nhiệm, nêu gương, tự phê bình và phê bình, đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư... của người đứng đầu cấp ủy. Người đứng đầu cấp ủy phải luôn có ý thức đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, chịu sự giám sát của đảng viên và quần chúng. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp theo quy định của Đảng.
Thứ ba, làm rõ trọng tâm nội dung kiểm tra, giám sát, trách nhiệm và các hình thức kiểm tra, giám sát. Cấp ủy các cấp phải nhận thức rõ, đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc tăng cường kiểm tra, giám sát người đứng đầu cũng như tập thể cấp ủy; thực hiện có hiệu quả việc kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với tổ chức đảng cấp dưới; nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, ý thức rèn luyện, sự kiên định về lập trường tư tưởng và tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong mọi hoạt động của tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị, địa phương.
Một số yêu cầu cụ thể đối với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy
Trước hết, bản thân người đứng đầu cấp ủy cần tự giác nêu gương và tuân thủ sự kiểm tra, giám sát một cách có ý thức; đồng thời, cần có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, đi đầu trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và gương mẫu thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, tiên phong trong thực hiện các quy định kiểm tra, giám sát trong Đảng, làm gương trong thực hiện trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và trong thực thi kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu cấp ủy, nhất là cán bộ cao cấp của Đảng, người đứng đầu tổ chức đảng ở các bộ, ban, ngành, địa phương cần gương mẫu đi đầu trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện nghiêm túc quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ủy ban kiểm tra các cấp về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và nêu gương về đấu tranh chống tư tưởng đặc quyền, đặc lợi, “lợi ích nhóm”, luôn luôn giữ vững sự liêm, chính, trong sạch của người đảng viên.
Thứ hai, lấy việc kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy làm trọng tâm và là ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, người đứng đầu cấp ủy được tổ chức đảng trao cho những quyền lực quan trọng và chịu trách nhiệm chính trị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Ở một số nơi, thực hiện chủ trương “nhất thể hóa”, người đứng đầu cấp ủy cũng thường là người đứng đầu chính quyền của các cơ quan, ban, ngành; do vậy, quyền lực chính trị mà họ được giao phó lại càng lớn và tập trung. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy, cơ quan kiểm tra, giám sát trong các tổ chức đảng và trong hệ thống chính trị là phải đề cao công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, lấy người đứng đầu cấp ủy làm trọng tâm kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ..., để người đứng đầu cấp ủy nhận thức rõ trách nhiệm trong quá trình sử dụng quyền lực, sát sao chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị, không dám và không có điều kiện quan liêu hoặc có hành vi tham nhũng, tiêu cực, lạm quyền, lộng quyền... Thông qua công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, cần phát hiện những hạn chế, bất cập, kịp thời yêu cầu sửa chữa những lệch lạc, vi phạm; khuyến khích đổi mới, phát triển. Cần tập trung đi sâu tìm hiểu tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tính kỷ luật trong cơ quan, đơn vị của người đứng đầu cấp ủy được kiểm tra, giám sát; tìm hiểu sâu những vấn đề quan trọng được phản ánh về hoạt động của cơ quan, đơn vị đó. Báo cáo kiểm tra, giám sát cần thể hiện rõ kết quả hoạt động của người đứng đầu cấp ủy với tư cách là người chịu trách nhiệm cao nhất và tính chính trực, tự giác của họ; đồng thời, đưa ra các ý kiến rõ ràng và các yêu cầu cụ thể để chấn chỉnh những hạn chế, bất cập trong hoạt động của họ.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng từ trên xuống; cấp ủy cấp trên phải làm tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát người đứng đầu và cấp ủy cấp dưới. Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, bí thư cấp ủy các bộ, ban, ngành trung ương và tỉnh, thành phố cần quán triệt việc xây dựng nền nếp, tác phong, lề lối làm việc trong tổ chức đảng, cơ quan quản lý nhà nước; kiểm tra, giám sát, đôn đốc đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp dưới; thực hiện trách nhiệm lãnh đạo toàn diện, nghiêm minh, trung thực, tự giác đối với người đứng đầu và cấp ủy cấp dưới; kịp thời giáo dục, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo cấp dưới khi phát hiện có vấn đề cần phải chấn chỉnh. 
Ủy ban Kiểm tra Trung ương tăng cường giám sát các tỉnh ủy, thành ủy, tập thể cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ở các cơ quan, đơn vị trực thuộc do Trung ương quản lý; đôn đốc các tỉnh ủy, thành ủy tăng cường quản lý đối với người đứng đầu cấp ủy cấp dưới. Người “tổng tư lệnh” ở cấp trên cần kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của “chỉ huy” ở cấp dưới (trước hết là cấp dưới trực tiếp) như là nội dung trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát hằng năm, hằng quý, hằng tháng, thậm chí hằng ngày; lấy kết quả kiểm tra, giám sát này làm căn cứ để tiến hành rà soát, sàng lọc cán bộ. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm, chệch hướng, cần kịp thời tiến hành phê bình, giáo dục, nhắc nhở đối với những người có khuyết điểm hoặc vi phạm mức độ nhẹ và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những người có vi phạm nghiêm trọng.
Thứ tư, thực hiện nghiêm túc chế độ lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ của tổ chức đảng gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy. Cấp ủy các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát toàn diện và nghiêm minh việc thực hiện chế độ trách nhiệm của đảng viên; trao đổi, nhắc nhở kịp thời các trường hợp người đứng đầu cấp ủy chưa thực hiện đúng trách nhiệm hoặc có những vấn đề nổi cộm. Ủy ban kiểm tra các cấp cần giám sát trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; thường xuyên tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát, góp ý, chấn chỉnh những lệch lạc, vi phạm. Cải thiện và thực hiện việc quản trị tổng thể và chặt chẽ hệ thống đánh giá trách nhiệm đảng viên, cấp ủy viên; kết quả đánh giá là cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn, bổ nhiệm cấp ủy, người đứng đầu và thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật, cũng như rà soát, sàng lọc đảng viên. Những trường hợp không hoàn thành trách nhiệm hoặc cố tình làm trái, có biểu hiện vi phạm thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của Đảng; cấp ủy và người đứng đầu tổ chức đảng có đảng viên vi phạm cũng có trách nhiệm liên đới, cần xem xét mức độ xử lý phù hợp, nhằm giữ vững kỷ luật, kỷ cương và sự nghiêm minh trong Đảng.
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát. Cấp ủy (trước hết là ban thường vụ cấp ủy), ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy cấp dưới trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, không để xảy ra hiện tượng độc đoán, chuyên quyền. Ủy ban Kiểm tra Trung ương tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của các tỉnh ủy, thành ủy, cấp ủy trực thuộc Trung ương. Ủy ban kiểm tra các cấp yêu cầu kiểm điểm kịp thời, nghiêm túc khắc phục các hậu quả khi phát hiện người đứng đầu cấp ủy cấp dưới có hành vi vi phạm quy định của Đảng; báo cáo thường trực cấp ủy cấp mình và ủy ban kiểm tra cấp trên nếu việc kiểm điểm, khắc phục đó không hiệu quả.
Thứ sáu, kịp thời nắm bắt thông tin phản hồi về người đứng đầu cấp ủy cấp dưới; xây dựng và thực hiện trách nhiệm giải trình đối với họ. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với người đứng đầu cấp ủy cấp dưới (trước hết là cấp ủy cấp dưới trực tiếp); đồng thời, phổ biến, quán triệt sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ, phong cách công tác cho người đứng đầu cấp ủy cấp dưới. Triển khai có hiệu quả hệ thống thông tin giữa người đứng đầu ủy ban kiểm tra, ban tổ chức cấp trên với người đứng đầu cấp ủy cấp dưới để thông báo những vấn đề chung, những hành vi vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng và vi phạm pháp luật trong phạm vi trách nhiệm. Thực hiện kiểm điểm tại cuộc họp mở rộng của ban thường vụ đảng ủy (hoặc ban cán sự đảng, đảng đoàn) và báo cáo giải trình về công việc này cần được thông báo công khai trong một phạm vi nhất định.
Các giải pháp chủ yếu tăng cường công tác kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong cấp ủy
Một là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trong cấp ủy. Cấp ủy viên, người đứng đầu cấp ủy phải chấp hành nghiêm túc Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng; nếu phát hiện có cán bộ, đảng viên vi phạm thì phải xem xét, xử lý kịp thời. Người đứng đầu cấp ủy thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, giáo dục cấp ủy viên; gương mẫu trong tự phê bình và phê bình. Các cấp ủy viên cần thường xuyên trao đổi ý kiến; nếu phát hiện ra những vấn đề bất cập trong tổ chức đảng, cần trao đổi thẳng thắn, tham mưu, đề xuất hướng giải quyết theo tinh thần xây dựng. Tập thể cấp ủy cần giải trình trung thực về những vấn đề cá nhân, cũng như những vấn đề mà quần chúng nêu ra, thực hiện phản hồi thông tin, kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất.
Hai là, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của đội ngũ cấp ủy viên, đồng thời nâng cao khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề của cấp ủy. Cấp ủy cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng và hoàn thiện các quy định liên quan. Các thành viên trong cấp ủy, tập thể cấp ủy cần có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc; nhắc nhở, giám sát lẫn nhau, thực hiện nhiệm vụ củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy; nếu có thành viên trong tập thể cấp ủy vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật thì phải báo cáo kịp thời, trung thực với tổ chức đảng có thẩm quyền.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động của cấp ủy, phân bổ quyền lực hợp lý, khoa học. Kiên quyết ngăn chặn những vi phạm trong nguyên tắc hoạt động của cấp ủy, không để cấp ủy viên biến công việc, lĩnh vực mà mình được phân công phụ trách thành “lãnh địa riêng”, không chịu sự lãnh đạo và kiểm tra, giám sát của tập thể cấp ủy. Xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc của tập thể cấp ủy theo quy định. Theo đó, những vấn đề quan trọng phải được đưa ra cấp ủy thảo luận, cấp ủy viên cần phát biểu đầy đủ ý kiến của mình; những vấn đề cần biểu quyết, nhưng còn có ý kiến khác nhau, thì phải trao đổi, thảo luận kỹ trước khi tiến hành biểu quyết.
Bốn là, cấp ủy xây dựng và thực hiện kế hoạch hoạt động hằng năm, hằng quý và hằng tháng; quản lý, chỉ đạo sát sao các tổ chức đảng. Người đứng đầu cấp ủy thường xuyên lắng nghe báo cáo về việc thực hiện trách nhiệm của các cấp ủy viên và cần trao đổi, có ý kiến kịp thời nếu thấy cấp ủy viên thực hiện trách nhiệm chưa đầy đủ; đồng thời, phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, nghiêm túc tiếp thu ý kiến tự phê bình và phê bình của cấp ủy viên và đảng viên trong tổ chức đảng; đôn đốc các đảng viên trong tổ chức đảng thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Cán bộ, đảng viên là đồng bào dân tộc thiểu số Pa Dí ở huyện biên giới Mường Khương, tỉnh Lào Cai xuống tận thôn, bản tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số_Ảnh: TTXVN
Năm là, cấp ủy thực hiện nghiêm túc chế độ ghi chép, lưu trữ tài liệu để bảo đảm tính hệ thống, chính xác của hồ sơ lưu trữ, không được can thiệp bất hợp pháp vào công tác cán bộ. Nếu cấp ủy viên can thiệp vào công tác cán bộ hoặc có quyết định vi phạm quy chế, vi phạm pháp luật, thiếu công tâm,... trong xây dựng đề án, thì cấp ủy phải báo cáo kịp thời với tổ chức đảng. Đồng thời, cấp ủy, tập thể lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo cần kiên quyết chống lại mọi sự thao túng (nhất là thao túng trong công tác cán bộ) từ người thân, bạn bè... của cán bộ lãnh đạo và báo cáo kịp thời với tổ chức đảng.
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với người đứng đầu và cấp ủy cấp dưới
Một là, thực hiện trách nhiệm kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là cấp dưới trực tiếp. Cấp ủy cấp trên phải tổ chức lãnh đạo có hiệu quả các nhiệm vụ trong lĩnh vực được giao, đồng thời sử dụng toàn diện các phương pháp, biện pháp, như kiểm tra, giám sát, thảo luận, tiếp thu kiến nghị, báo cáo, đôn đốc, chấn chỉnh các vấn đề để tăng cường kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy cấp dưới, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy cấp dưới.
Hai là, cấp ủy cấp trên tăng cường kiểm soát quyền lực đối với cấp ủy cấp dưới, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy; thúc đẩy quy chuẩn hóa công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng. Cấp ủy phải sử dụng có hiệu quả hệ thống kiểm soát quyền lực, hệ thống quản trị công việc và hệ thống quản lý con người; chú trọng xây dựng và cải tiến hệ thống quản lý, kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy sao cho thật chặt chẽ, hiệu quả. 
Ba là, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy cần gương mẫu trong việc thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước khi vợ, chồng, con cái, người thân làm kinh tế, điều hành doanh nghiệp; không được lợi dụng quyền lực để trục lợi hoặc xây dựng “nhóm lợi ích”, vun vén cá nhân; quản lý chặt chẽ và thường xuyên nhắc nhở người thân, không để họ lợi dụng quyền lực của mình để trục lợi. Cấp ủy và cơ quan kiểm tra các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát các mối quan hệ của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cấp ủy, với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và xử lý kịp thời các đơn, thư tố cáo về những sai phạm trong các mối quan hệ này theo quy định pháp luật và kỷ luật đảng.
Bốn là, cấp ủy cấp trên tăng cường hướng dẫn cấp ủy cấp dưới tổ chức sinh hoạt đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thống nhất xác định hoặc thông qua chủ đề cuộc họp sinh hoạt đảng của tập thể cấp ủy cấp dưới; cấp ủy viên cấp trên được phân công định kỳ tham gia sinh hoạt đảng với tập thể cấp ủy cấp dưới theo quy định. Ủy ban kiểm tra và ban tổ chức cấp ủy cấp trên tiến hành kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy cấp dưới thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình và các quy định về hoạt động của tổ chức đảng; chỉ rõ và đôn đốc cấp ủy cấp dưới kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm; đồng thời, sớm giải quyết các vướng mắc, kiến nghị của cấp ủy cấp dưới.
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và thực hiện rà soát, đánh giá, sàng lọc cán bộ. Cấp ủy cấp trên cần tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tuyển dụng, lựa chọn, đào tạo, đánh giá, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, tăng cường kiểm soát cấp ủy viên cấp dưới, nhất là đối với các ứng viên do người đứng đầu cấp dưới bổ nhiệm; phân tích, đánh giá, tham mưu và đề xuất ý kiến liên quan tới công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Cần thực hiện tốt tiêu chuẩn, vị trí việc làm, các quy trình kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên. Các cơ quan kiểm tra, giám sát cần chủ động cập nhật hồ sơ cán bộ cấp ủy, chính quyền; đồng thời, có ý kiến, kết luận kịp thời về tư cách đảng viên và tiêu chuẩn cấp ủy viên các cấp theo quy định; tham gia đánh giá, xếp loại tập thể cấp ủy và cấp ủy viên một cách toàn diện, công tâm, khách quan, kết hợp với những kết luận trong các cuộc kiểm tra, giám sát để làm căn cứ rà soát, đánh giá và sàng lọc cán bộ.
Sáu là, thường xuyên phân tích, đánh giá tình hình đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhắc nhở kịp thời đối với cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên, người đứng đầu cấp ủy cấp dưới có nhiều đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Cấp ủy cấp trên phải lắng nghe ý kiến của cấp ủy cấp dưới và cán bộ, đảng viên, quần chúng, nghiêm túc tiếp thu ý kiến tự phê bình và phê bình. Cơ quan kiểm tra, bộ phận tổ chức - cán bộ cần thường xuyên phân tích, đánh giá tình hình, đề xuất các ý kiến xử lý đối với những vấn đề phát sinh, nổi cộm liên quan đến người đứng đầu và cấp ủy cấp dưới.
Bảy là, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc khắc phục những hạn chế, bất cập; đôn đốc thực hiện các kết luận kiểm tra; xử lý nghiêm các vi phạm kỷ luật đảng và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. 
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát, hoàn thiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng. Cấp ủy các cấp phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về kiểm tra, giám sát; tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi, lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo chức năng, phạm vi nhiệm vụ của mình; chú trọng giám sát thường xuyên đối với tổ chức đảng cấp dưới và sự giám sát của đảng viên.
Hai là, cấp ủy các cấp phát huy cao độ vai trò của công tác kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng, phối hợp chặt chẽ hoạt động của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, tư pháp; giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; giữa các hoạt động giám sát, như giám sát dân chủ, giám sát hành chính, giám sát tư pháp, giám sát kiểm toán, giám sát tài chính - kế toán, giám sát thống kê, giám sát quần chúng và giám sát dư luận... Tăng cường tích hợp các nguồn thông tin, sử dụng có hiệu quả dữ liệu lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; thiết lập và hoàn thiện cơ chế tham vấn, nghiên cứu, nhận định, đánh giá các vấn đề kiểm tra, giám sát, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật và thường xuyên nghe các báo cáo công tác liên quan để thực hiện phối hợp có hiệu quả các loại hình kiểm tra, giám sát.
Ba là, phát huy hơn nữa vai trò của ủy ban kiểm tra các cấp để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Ủy ban kiểm tra các cấp phải tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc người đứng đầu cấp ủy, tập thể cấp ủy, lãnh đạo các cấp trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sử dụng có hiệu quả các phương thức kiểm tra, giám sát nhằm tăng cường tính kỷ cương, kỷ luật và pháp luật nghiêm minh, kiên quyết xử lý những hành vi lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền lực để trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nghiêm khắc xử lý hành vi lơ là, thiếu trách nhiệm... Tăng cường sự chỉ đạo đối với ủy ban kiểm tra cấp dưới, tổ chức tập huấn nghiệp vụ và hỗ trợ tích cực ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Tăng cường xây dựng kỷ luật của chính các cơ quan kiểm tra, hoàn thiện cơ chế kiểm soát nội bộ; đồng thời, thực hiện có hiệu quả việc kiểm soát quyền lực./.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn
-----------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 187 – 188
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 189 - 190   
(3), (4) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 200, 197 - 198.
Tin liên quan