Đảng ta luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta đã ra các nghị quyết đặt lên hàng đầu chiến lược “phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước”(1). Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: “Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia”(2).
Quan điểm trên đây thể hiện sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”(3).
Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Song, nhân tố con người chỉ thực sự phát huy được khi năng lực tinh thần và thể chất của mỗi con người được chăm lo chu đáo, “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi(4), như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
Về tư duy lý luận, cần luôn gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần và giá trị nhân văn nhằm làm cho con người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội được lành mạnh hóa, được văn hóa hóa.
Quan niệm về nhân tố con người trên đây hoàn toàn phù hợp với những hiểu biết có tính thời đại về phát triển con người, đó là quan điểm nhân văn, coi con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển; phát triển con người là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân hướng tới một cuộc sống đầy đủ về chất chất và phong phú, tốt đẹp về tinh thần.
Đối với Việt Nam, mở rộng những cơ hội lựa chọn trước hết là mở rộng nguồn thu nhập như một phương tiện để đạt được mục tiêu phát triển con người. Cùng với cơ hội tăng thu nhập thì nhiều cơ hội lựa chọn khác cũng rất quan trọng, như được khỏe mạnh và sống lâu, được học hành và được tiếp cận với nhiều nguồn lực cần thiết để cuộc sống được ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, đói nghèo là một nguyên nhân dẫn đến sự mất đi những cơ hội khác, làm cho con người rơi vào tình trạng thất học, vốn tri thức trở nên nghèo nàn, từ đó nhân tố con người không phát huy được như mong muốn.
Quan điểm phát triển con người cần được khẳng định ở những điểm sau đây:
- Con người được coi là trung tâm của sự phát triển. Mọi vấn đề phát triển phải luôn luôn cân nhắc đến lợi ích của con người.
- Con người là mục tiêu của sự phát triển. Mọi sự phát triển phải lấy con người làm đối tượng phục vụ của mình.
- Trong phát triển, phải luôn luôn nâng cao vị thế của con người với tư cách là những chủ thể của hoạt động.
- Con người tham gia vào sự phát triển được chăm lo những cơ hội để bảo đảm sự công bằng và bình đẳng.
- Con người được phát triển toàn diện, từ đó mở rộng được những cơ hội lựa chọn trước mọi vấn đề của cuộc sống.
Theo các quan điểm trên, vấn đề nhân tố con người và phát triển con người gắn liền với lý thuyết về vốn con người, về nguồn nhân lực. Nhiều quốc gia đã coi đầu tư vào vốn con người (đầu tư vô hình) là một trong các chính sách ưu tiên.
Vốn con người là tổng hợp các năng lực sản xuất của người lao động, đồng thời là các khoản chi phí của nhà nước, của doanh nghiệp, của từng con người cho việc hình thành và thường xuyên hoàn thiện những năng lực đó. Thực tiễn của sự phát triển thế giới hiện đại và của những năm đổi mới trên đất nước ta đã làm sáng rõ một kết luận rằng, đầu tư vào vốn con người, vào giáo dục là đầu tư cho phát triển, là đầu tư có hiệu quả nhất. Đề cập vốn con người là một cuộc cách mạng trong tư duy kinh tế, nhờ đó, chúng ta đã coi con người là nhân tố hàng đầu, là yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất.
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta tiếp tục khẳng định: phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là một trong ba đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội. Mục tiêu cao nhất của sự đột phá này là kết quả của nó không thể là cái gì khác, mà chính là con người, nhằm nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển.
Mục tiêu của phát triển văn hóa là sự phát triển con người. (Ảnh minh họa)
Thước đo sự phát triển văn hóa chính là sự phát triển con người, mục tiêu của phát triển văn hóa là sự phát triển con người. Nói đến công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa, phải nói đến sự phát triển văn hóa ngay trong các đơn vị xã hội nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, làng xã. Bởi lẽ, sự trưởng thành hay phát triển của mỗi nhân cách phải trải qua quá trình văn hóa hóa toàn bộ đời sống và nhân cách đó để trở thành các giá trị định hình bền vững. Nghĩa là, để có những nhân cách văn hóa, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động đa dạng của con người. Lịch sử văn hóa Việt Nam từng có các đơn vị xã hội; gia đình, làng, xã có vai trò quan trọng trong quá trình nhập thân văn hóa của mỗi cá thể người. Vấn đề được chúng ta đặc biệt quan tâm trong những năm qua: xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, phong phú chính là xuất phát từ quan điểm này.
Quá trình văn hóa hóa đó, xét cho cùng, là tạo ra các giá trị văn hóa trong nhân cách. Đó là quá trình thực tiễn cần được đúc kết, tông kết. Từ định hướng 5 đức tính của con người Việt Nam trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII(5), có thể nghĩ tới việc đúc kết cô đúc hơn các giá trị cơ bản của con người Việt Nam đương đại, đó là:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung;
- Có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước;
- Lao động chăm chỉ, có kỹ thuật, sáng tạo, có năng suất cao vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, thẩm mỹ và thể lực.
Vấn đề quan trọng của nhân cách văn hóa là lối sống. Lối sống được thể hiện ở lẽ sống, nếp sống, mức sống, chất lượng sống và sinh hoạt tinh thần của con người, của một cộng đồng cũng như của xã hội. Trên thực tế, có thể mức sống chưa cao, nhưng nhờ có lẽ sống đẹp, nếp sống lành mạnh, con người và xã hội có thể trở thành con người có văn hóa, xã hội có điều kiện phát triển và tiến bộ. Trong điều kiện dân tộc ta đã phải trải qua nhiều thách thức của chiến tranh, đất nước còn nghèo, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lối sống và lẽ sống đẹp cho con người và xã hội, không phải chờ khi có mức sống vật chất tốt hơn, được cải thiện hơn, mặc dầu, tuyệt nhiên không được tách rời hay đối lập giữa lối sống với mức sống. Chính xuất phát từ tư tưởng và định hướng trên, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh đất nước và tinh thần, tâm lý, truyền thống con người Việt Nam, mà trong một thời gian dài, từ Cách mạng Tháng Tám 1945, qua 30 năm chiến tranh khốc liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chúng ta đã xây dựng được cho dân tộc ta, nhân dân ta một lối sống đẹp, một đời sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, sự đoàn kết, gắn bó, yêu thương nhau… tạo nên một sức mạnh tinh thần to lớn, những giá trị cao đẹp và sâu sắc, trở thành một nguyên nhân quan trọng làm nên các chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta. Đây là một bài học kinh nghiệm rất sâu sắc, có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn, cả khi đất nước đang vươn lên xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy bài học kinh nghiệm quý báu trên, trong những năm đổi mới, vấn đề lối sống được đặc biệt quan tâm, từ đó, chúng ta khẳng định tư tưởng, đạo đức và đời sống văn hóa lành mạnh là những lĩnh vực then chốt của văn hóa và được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách.
Tuy vậy, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Những vấn đề bức xúc mới lại được đặt ra, vì thế, cần làm rõ hơn nữa bài học cực kỳ quan trọng được rút ra từ thực tiễn những năm qua là tăng trưởng kinh tế chưa đồng bộ với phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, những vấn đề về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm nhân dân bất bình, lo lắng. Đặc biệt, từ sau những biến động to lớn, phức tạp, nhanh chóng của tình hình thế giới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, xã hội và văn hóa, đã tác động trực tiếp đối với đất nước ta và sự chuyển động sâu sắc của đất nước từ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, vấn đề lối sống, quan hệ giữa lối sống và mức sống đã và đang trở thành một vấn đề lớn trong đời sống xã hội, đặt ra nhiều câu hỏi mới, phức tạp hơn, sâu sắc hơn, không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Từ đó, cần xác định một trong những chủ trương lớn trong những năm tới là tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế, chính sách và giải pháp đẩy mạnh việc xây dựng nếp sống, lối sống văn hóa, văn minh, giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của xã hội và con người Việt Nam.
Con người Việt Nam đang đứng trên ba yêu cầu lớn và thách thức gay gắt: bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, tỉnh táo vượt qua, khắc phục những hạn chế lịch sử của con người Việt Nam và nuôi dưỡng, chăm lo sự phát triển của các giá trị mới do công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế tạo nên. Không thể né tránh bất cứ yêu cầu nào, đồng thời phải giải quyết, xử lý trong thực tiễn quan hệ giữa ba yêu cầu đó để tạo nên một thế hệ con người mới Việt Nam truyền thống - hiện đại. |
Quá trình đổi mới đi vào chiều sâu, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh và tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng khẩn trương đã tạo nên sự biến đổi mạnh, sâu của các giá trị trong nhân cách con người Việt Nam đương đại. Lúc này, con người Việt Nam đang đứng trên ba yêu cầu lớn và thách thức gay gắt: bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, tỉnh táo vượt qua, khắc phục những hạn chế lịch sử của con người Việt Nam và nuôi dưỡng, chăm lo sự phát triển của các giá trị mới do công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế tạo nên. Không thể né tránh bất cứ yêu cầu nào, đồng thời phải giải quyết, xử lý trong thực tiễn quan hệ giữa ba yêu cầu đó để tạo nên một thế hệ con người mới Việt Nam truyền thống - hiện đại. Đây là một cuộc đấu tranh vô cùng tinh tế, phong phú, sâu sắc. Hiện nay, chúng ta đang đứng ở thời điểm bắt đầu của quá trình lớn lao trên. Những truyền thống đang được sắp xếp, lựa chọn lại. Những hạn chế lịch sử của con người Việt Nam, lâu nay bị lảng tránh hoặc cho rằng không có, bắt đầu được nhận biết. Cái hiện đại chưa có chuẩn xác định nhưng đang hình thành và phát triển mạnh, cả cái giá trị và cái phản giá trị, giả giá trị. Nhưng quy luật hình thành của thế hệ mới là tất yếu. Vấn đề nóng bỏng đặt ra là, nhận biết khoa học, tỉnh táo, định hướng chuẩn xác và điều chỉnh cần thiết để chăm lo một cách chủ động cho sự hình thành thế hệ đó. Toàn bộ công việc công phu đó thuộc về toàn xã hội, trong đó, theo chức năng của mình, trực tiếp thuộc về văn hóa. Tất nhiên, hiểu văn hóa ở đây là toàn bộ các hoạt động, sản phẩm và thành quả của nó, đồng thời là các giá trị nằm trong chiều sâu của đời sống, trong các lĩnh vực khác của xã hội. Mặt khác, điều đó còn phụ thuộc vào năng lực, khả năng biết phát huy và sử dụng ở mức cao nhất sức mạnh, tính ưu việt, đặc trưng của văn hóa trong xây dựng con người. Điều đó có nghĩa là, khi khẳng định nhiệm vụ trung tâm của văn hóa là đúc kết và xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại, đồng thời cũng chính là đặt ra yêu cầu cao và mới đối với những người lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức văn hóa./.
Nguồn:https://tuyengiao.vn
____________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.52, tr.345.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.12, tr.11.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.
(5) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.58-59.