Sau 5 năm thực hiện Nghị 29 -NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tỉnh Hưng Yên đã đạt kết quả quan trọng. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền trên địa bàn toàn tỉnh được thực hiện một cách thống nhất, nghiêm túc và hiệu quả. Việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo tại các cấp chính quyền, cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh được tiến hành đồng bộ.
5 năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức ngành giáo dục và đào tạo trên toàn tỉnh được kiện toàn đảm bảo tiêu chuẩn, vị trí việc làm đáp ứng yêu cầu đổi mới. Công tác xây dựng Đảng trong các trường học được các cấp ủy coi trọng, quan tâm chỉ đạo thực hiện, nhất là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, cấp ủy tập trung giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, giáo viên trong thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tính đến tháng 6/2018, tỷ lệ đảng viên toàn ngành đạt 51,95% (tăng 4,07% so với năm 2013). Cấp ủy các trường tập trung triển khai, thực hiện nghiêm túc việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và các phong trào thi đua của ngành, góp phần xây dựng nền nếp, kỷ cương của nhà trường ngày một tốt hơn.
Coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, thực hiện chủ trương đổi mới nội dung, chương trình giáo dục phổ thông, ngành giáo dục Hưng Yên đã thực hiện việc thay sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giáo dục theo chuẩn kiến thức kỹ năng nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tích cực của học sinh, đảm bảo hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ, dạy nghề. Đổi mới mô hình học theo hướng mở, tạo cơ hội học tập cho học sinh, cụ thể: Giáo dục tiểu học: 100% các nhà trường tiếp tục thực hiện dạy học chương trình Tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu Công nghệ giáo dục. Học sinh phát triển tốt 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và có khả năng tự chiếm lĩnh kiến thức, nắm chắc ngữ âm, không đọc vẹt; đồng thời tiếp tục đổi mới dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học, trong đó có 83/170 trường thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới. Học sinh được học theo mô hình trường học mới đều năng động, tự tin và phát huy tốt khả năng tự học (tiêu biểu là trường tiểu học Lạc Đạo A huyện Văn Lâm; các trường tiểu học của huyện Khoái Châu, huyện Kim Động). Các trường thực hiện bài dạy, tiết dạy, chủ đề áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”... Giáo dục trung học: Năm học 2017-2018, toàn tỉnh có 93/171 trường THCS dạy học theo mô hình trường học mới. Có thể nói việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học đã đạt được hiệu quả cao góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Việc đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan được triển khai thực hiện tốt. Phụ huynh học sinh và dư luận xã hội yên tâm với cách đánh giá mới, thường xuyên kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp và nhà trường trong việc giáo dục con em mình.
Đối với công tác xóa mù chữ (XMC), ngành Giáo dục và Đào tạo đã tích cực tham mưu với chính quyền các cấp để tổ chức điều tra, rà soát, cập nhật thông tin trên phần mềm quản lý phổ cập giáo dục để thực hiện công tác phổ cập giáo dục và XMC trên toàn tỉnh. Đến nay người biết chữ chiếm tỉ lệ cao: Có 420.221/420.963 người 15 đến 35 tuổi biết chữ mức độ 1 tỷ lệ 99,82% (tăng 0,28% so với năm 2015). Có 803.770/807.540 người 15 đến 60 tuổi biết chữ mức độ 2 tỷ lệ 99,53% (tăng 0,64% so với năm 2015). Có 161/161 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn XMC mức độ 2 (tỷ lệ 100%); 10/10 huyện/thành phố đạt chuẩn XMC mức độ 2 (tỷ lệ 100%); Tỉnh đạt chuẩn XMC mức độ 2. Công tác phổ cập giáo dục của tỉnh duy trì và đạt chất lượng vững chắc về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2; số học sinh đến lớp luôn đạt tỷ lệ cao; tỷ lệ học sinh bỏ học thấp.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống; giáo dục thể chất; giáo dục quốc phòng, an ninh; giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên được chú trọng. Đặc biệt, năm 2016, tỉnh đã nghiên cứu, biên soạn và phát hành cuốn sách “Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên tỉnh Hưng Yên” nhằm cung cấp một cách khái quát quan điểm của Đảng, Bác Hồ về giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên; những vấn đề đặt ra hiện nay, cũng như những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh.
Về đổi mới giáo dục nghề nghiệp (GDNN), công tác đào tạo nghề bước đầu được xã hội hoá và gắn kết nhu cầu các bên (người học, nhà trường, doanh nghiệp), đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã phối hợp với các doanh nghiệp, các địa phương để tổ chức đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường, theo đơn đặt hàng. Từ năm 2013 đến năm 2017, toàn tỉnh đã đào tạo được trên 222.000 lao động, trong đó trình độ cao đẳng 9.637 người, trung cấp 12.132 người, trình độ sơ cấp và ngắn hạn trên 200.000 người. Trong tổng số lao động đã qua đào tạo có khoảng 90% lao động thuộc khu vực nông thôn (khoảng 200.000 người). Lao động đã có việc làm sau khi học nghề ở các cấp trình độ như sau: Trình độ cao đẳng đạt trên 95%, trình độ trung cấp đạt trên 90%, trình độ sơ cấp và ngắn đạt trên 87%. Số còn lại hoặc đang tự tạo việc làm hoặc đang tự tìm việc làm.
Mạng lưới cơ sở GDNN trên địa bàn tỉnh đang từng bước được điều chỉnh, hoàn thiện. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 45 cơ sở GDNN và tham gia hoạt động GDNN, trong đó, có 10 trường cao đẳng, 08 trường Trung cấp. Các cơ sở GDNN được phân bổ đều trên địa bàn tỉnh. Hiện có 85 nghề phổ biến đang được đào tạo trên địa bàn tỉnh, trong đó 44 nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp, 19 nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp, 22 nghề thuộc lĩnh vực dịch vụ và nghề khác. Công tác đào tạo nghề được thực hiện ở 3 cấp trình độ là: Cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và ngắn hạn. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong tỉnh đã chủ động xây dựng, hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo theo quy định, bám sát nhu cầu thực tiễn, có sự tham gia của doanh nghiệp, kịp thời đáp ứng được sự thay đổi của công nghệ.
Cũng trong 5 năn qua, hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục các cấp học, bậc học đã được phân bố đều trên phạm vi toàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân trong tỉnh. Toàn tỉnh hiện có 188 trường mầm non, trong đó có 167 trường công lập, 21 trường ngoài công lập (tăng 12 trường so với năm 2013), mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 01 trường mầm non công lập. Tỷ lệ huy động cháu ra nhà trẻ đạt 39,7% (tăng 7,2% so với năm 2013), tỷ lệ cháu mẫu giáo ra lớp đạt 97,8% (tăng 1,8% so với năm 2013) và cháu mẫu giáo 5 tuổi ra lớp đạt tỷ lệ 100%. Về giáo dục tiểu học: Hiện có 170 trường (tăng 01 trường so với năm 2013), huy động 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1. Về Giáo dục THCS: Hiện có 171 trường, mỗi huyện, thành phố có 01 trường THCS chất lượng cao; huy động 100% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6. Về Giáo dục THPT: Hiện có 37 trường (26 trường công lập, 11 trường ngoài công lập) và 02 trường phổ thông nhiều cấp học; tỷ lệ học sinh học lớp 9 vào lớp 10 đạt 78,76% (trong đó công lập 66,9%, ngoài công lập 11,86%). Về Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên: Hiện có 02 trung tâm GDTX cấp tỉnh; 09 trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện; 161 trung tâm giáo dục cộng đồng; 04 trường cao đẳng, trung cấp có dạy chương trình bổ túc văn hóa trung học phổ thông. Tổng số học viên học chương trình Bổ túc văn hoá trung học phổ thông là: 4.661 học viên (trong đó học viên của 10 Trung tâm GDTX và GDNN-GDTX là 1.932 học viên; các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề liên kết với các Trung tâm GDTX và GDNN-GDTX dạy chương trình Bổ túc văn hoá trung học phổ thông là 2.729 học viên). Về Giáo dục đại học: Toàn tỉnh hiện có 06 trường đại học: 05 trường đại học đã hoạt động (01 trường đang chờ cấp phép hoạt động), 01 trường cao đẳng sư phạm, 01 trường trung cấp có đào tạo hệ trung cấp sư phạm mầm non. Tổng số học sinh, sinh viên học tại các trường đại học, cao đẳng sư phạm và trường Trung cấp chuyên nghiệp có đào tạo trung cấp chuyên ngành sư phạm là 15.837 học viên (trong đó, đào tạo Thạc sĩ là 535 học viên, đại học 13.986 học viên, cao đẳng 802 học viên, Trung cấp chuyên nghiệp có đào tạo sư phạm là 514 học viên), góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh và cả nước.
Công tác giáo dục hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh phổ thông được triển khai bằng nhiều nội dung và hình thức. Đến nay, công tác phân luồng học sinh sau THCS có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh học nghề đạt tỷ lệ 13,16% (tăng 6,2% so với năm 2013).
Công tác xây dựng xã hội học tập theo Đề án “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020” trên địa bàn tỉnh được triển khai tích cực. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã chủ động phối hợp với các ban, ngành của tỉnh và UBND các huyện, thành phố để củng cố, từng bước nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Tham mưu với chính quyền các cấp và phối hợp với hội khuyến học tỉnh xây dựng Chương trình phối hợp về triển khai đánh giá, xếp loại “Cộng đồng học tập” cấp xã. Năm 2016 toàn tỉnh đánh giá xếp loại 11 xã, phường, thị trấn (mỗi huyện, thành phố 01 xã, phường, thị trấn, riêng huyện Khoái Châu xếp loại 02 xã), kết quả 100% xếp loại tốt; năm 2017 đã hướng dẫn các huyện, thành phố đánh giá xếp loại, theo đó đã đánh giá được 129/161 xã phường, thị trấn (đạt 80,12%), trong đó có 68 xã xếp loại tốt (đạt tỷ lệ 52,7%), loại khá 56 xã (tỷ lệ 43,41%), loại trung bình có 05 xã (tỷ lệ 3,87%)...
Công tác quản lý giáo dục, đào tạo bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, trách nhiệm quản lý theo ngành, địa phương; phân định rõ công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo;... Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các ngành học, cấp học được củng cố, kiện toàn theo yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hóa về trình độ đào tạo, đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Đến nay, tỷ lệ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn đào tạo trở lên trong toàn ngành ở các cấp học đạt 100%; giáo viên trên chuẩn ở mầm non là 2.686 giáo viên đạt tỷ lệ 67,07% (tăng 25,37% so với năm 2013), tiểu học là 4.187 giáo viên đạt tỷ lệ 93,29% (tăng 22,16% so với năm 2013), trung học cơ sở là 2.904 giáo viên đạt tỷ lệ 69,69% (tăng 10,14% so với năm 2013), trung học phổ thông là 318 giáo viên đạt tỷ 16,61% (tăng 3,17% so với năm 2013). Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, phát triển cơ sở giáo dục ngoài công lập. Đến nay, toàn tỉnh có 21/188 trường mầm non ngoài công lập, chiếm 11,17% tổng số các cơ sở giáo dục mầm non; 11/37 trường THPT chiếm 29,72%; 02 trường phổ thông nhiều cấp học ngoài công lập; 06/17 trường chuyên nghiệp chiếm 35,3%; ngoài ra còn có các cơ sở dạy nghề, cơ sở truyền nghề tại các làng nghề trong tỉnh. Các huyện, thành phố và ngành giáo dục đang xây dựng phương án thí điểm chuyển đổi các trường mầm non, các trường THCS chất lượng cao, trường trung học phổ thông công lập sang mô hình tự chủ về tài chính, tự bảo đảm chi thường xuyên và đề án thí điểm chuyển đổi mô hình trường mầm non công lập, trường THPT công lập ra ngoài công lập.
Công tác khuyến học, khuyến tài được đẩy mạnh. Quỹ khuyến học của tỉnh và các huyện, thành phố tính đến hết tháng 01/2018 tiếp tục nhận được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành và các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh. Tổng số Quỹ của toàn tỉnh hiện có là 55,826 tỷ đồng, trong đó Quỹ cấp tỉnh là 1,2 tỷ đồng, Quỹ các huyện, thành phố là 54,356 tỷ đồng, Quỹ Ban khuyến học Công an tỉnh là 0,270 tỷ đồng.
Tỉnh đã đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học theo hướng chuẩn hóa, kiên cố hóa, hiện đại hóa và xây dựng trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới, xóa bỏ các phòng học 3 ca, phòng học xuống cấp, phòng học tạm, phòng học nhờ, ưu tiên cho xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Đến nay toàn tỉnh có 9.263 phòng học, trong đó phòng học kiên cố cao tầng là 8.284 phòng. Tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng bậc mầm non 78,63% (tăng 9,0% so với năm 2013), tiểu học 93,65% (tăng 3,1% so với năm 2013),THCS 97,06%, (tăng 2,46% so với năm 2013), THPT 92,33% (tăng 3,23% so với năm 2013), đảm bảo phòng học cho học sinh. Trường chuẩn quốc gia: có 308 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, trong đó mầm non có 72/188 trường đạt tỷ lệ 38,29% (tăng 28 trường so với năm 2013), tiểu học 131/170 trường đạt tỷ lệ 77,05% (tăng 21 trường so với năm 2013), THCS 87/171 trường đạt tỷ lệ 50,87%, (tăng 25 trường so với năm 2013), THPT 18/37 trường đạt tỷ lệ 48,64% (tăng 08 trường so với năm 2013).
Ngoài ra tỉnh chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Tỉnh có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư, tài trợ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ và xây dựng một số cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách. Hiện đã có trường đại học Anh quốc, đại học TOKYO được xây dựng tại khu đô thị ECOPARK (Văn Giang); một số trường đại học đang xây dựng tại các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào. Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức liên hệ, trao đổi thống nhất nội dung Chương trình hợp tác với Sở Giáo dục và Đào tạo Incheon (Hàn Quốc)...
Để tiếp tục thực hiện tố các mục tiêu của Nghị quyết, trong thời gian tới, các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh sẽ tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 29-NQ/TW, nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, giảng viên, giáo viên và sự đồng thuận của xã hội trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Vận dụng đưa Nghị quyết số 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVIII) về Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào các chương trình, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 để thực hiện.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của đảng, sự quản lý của nhà nước, sự phối hợp đồng bộ giữa các ban, ngành và tổ chức chính trị-xã hội đối với giáo dục...
Ba là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và người dân, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Bốn là, đổi mới công tác quản lý, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng; nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự chủ động sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên...
Năm là, quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo dạy nghề theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội...
Sáu là, quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo dạy nghề theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội. Triển khai thực hiện Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.
Bẩy là, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và các cơ sở hạ tầng theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hóa, hiện đại hoá. Xây dựng cơ sở vật chất cho các trường trong danh mục xã nông thôn mới, đạt chuẩn quốc gia. Tăng cường trang thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình và sách giáo khoa mới.
Tám là, tăng cường và phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của ngành giáo dục...
HL