Làng Bạt Trung trước đây là thôn Việt Hưng, xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Quang Lịch, tỉnh Hưng Yên. Thuở xưa, đình, đền, miếu làng Bạt Trung thờ Triệu Quang Phục và tướng lĩnh của ông được xây dựng thành một quần thể lớn, nay đã bị hư hao chỉ còn lại một ngôi miếu cổ. Hằng năm, làng mở hội hai kỳ vào 15/3 và 15/8, những năm gần đây thường được tổ chức vào dịp 15/3.
Xưa, hội làng Bạt Trung mở với nghi thức quốc tế tưởng niệm Triệu Quang Phục với nhiều sự lệ, nhiều trò dân gian đua tài thi khéo như thi lợn lềnh, bắt gà, bắt vịt, đấu roi, đẩy gậy, đặc biệt là tục thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải lấy nước nấu cơm cần. Nay tục thi lợn lềnh không duy trì, còn các trò dân gian đã được khôi phục, riêng trò thi kéo lửa nấu cơm cần thường thu hút nhiều thành viên trong làng tham gia.
Tương truyền, vào thế kỷ VI, khi Triệu Quang Phục lui quân về Dạ Trạch (Hưng Yên) có hai người làng Bạt Trung là Lý Chiêu Tường và Trần Hưng Chấn chiến đấu dưới cờ của ông. Nghĩa quân của Triệu Quang Phục trên các chiến thuyền bị vây riết, trên đầm lầy không có lửa nấu cơm, họ nghĩ ra cách dùng dây thuyền kéo mạnh vào cọc thuyền tạo ra lửa, treo niêu trên sào vừa lướt thuyền vừa nấu cơm. Thuở ấy vùng đất thuộc làng Bạt Trung ngày nay cũng đang là một vùng đầm lầy đầy lau sậy, hai ông Lý Chiêu Tường và Trần Hưng Chấn cũng đã được Triệu Quang Phục cho triển khai thế trận ở đây và từng nấu cơm theo cách này. Sau này dân làng lập đền thờ Triệu Quang Phục và hai ông. Theo định lệ cứ vào các năm Tý - Mão - Ngọ - Dậu, làng Bạt Trung tổ chức thi kéo lửa nấu cơm cần. Các tục thi lợn lềnh, bắt gà, bắt vịt, đấu roi... năm nào cũng được duy trì trong ngày hội.
Tục thi lợn lềnh hàng giáp vốn là một tục lệ khá phổ biến ở nhiều làng cổ ở châu thổ Bắc Bộ. Các cố lão trong làng Bạt Trung gọi là tục nuôi nỉ (từ cách gọi này chúng ta thấy tục nuôi lợn phân cho các đinh trong giáp ở Bạt Trung vốn có rất lâu đời bởi từ “nỉ” vốn là từ nôm cổ nay không còn thông dụng, chỉ thấy tồn tại trong cụm từ cố định “nỉ lần nỉ lượt”). Làng Bạt Trung có 4 giáp, hằng năm các giáp phân cho một hộ theo nhân đinh nuôi lợn. Nhà nào đến phiên nuôi lợn lềnh được xem là một việc đại sự. Từ đầu năm phải lo chọn giống, làm chuồng. Con lợn để dự thi gọi là ông lợn, được chăm lo nuôi dưỡng sạch sẽ, chu đáo. Đến ngày khai hội, gia chủ phải lo làm xôi đãi làng, đãi giáp rồi chiêng trống rước lợn ra đình để dự thi. Lợn được đo bằng dây để tính vòng vai, chiều dài, vòng bụng. Thước dây đo xong lại được kiểm tra lại trên thước khắc trên đá tảng ở đình. Lệ của mỗi làng về quy cách đo, tính thưởng khác nhau. Lợn tế thánh xong từng phần cơ thể con lợn chia theo ngôi thứ trong làng, phần còn lại chia cho các xuất đinh đã vọng. Chương Đình đám, tiết lệ trong hương ước của làng Bạt Trung (soạn vào năm 1924) có ghi chép tỉ mỉ về tục nuôi nỉ, thi lợn lềnh và phân chia lợn lềnh cho các ngôi thứ trong làng.
Tục thi nấu cơm cần của làng Bạt Trung là một cuộc thi mang sắc thái độc đáo của cư dân nông nghiệp vùng châu thổ Bắc Bộ. Để có được bát cơm dẻo cúng thần phải qua các kỳ thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải lấy nước nấu cơm, nấu cơm chín, dẻo, vượt thời gian.
Cuộc thi đầu tiên là kéo lửa. Làng Bạt Trung có 4 giáp, mỗi giáp một cối dự thi. Cối dùng để kéo lửa là một đoạn tre hóa gốc già, thẳng dài chừng 1m20. Ở đốt giữa đoạn tre đục thông một lỗ dài 20cm, rộng 1,5 cm để đặt mồi. Ở khoảng giữa lỗ được tạo thành hai rãnh để đặt dây kéo. Dây kéo lửa là loại lạt tre dây dài chừng 80 cm, dây phải vừa dẻo vừa bền, kéo không bị đứt. Mồi để bén lửa là loại mạt rạ mục trên mái nhà lợp rạ được nghiền nhỏ rang, phơi kỹ hoặc một ít bã sắn dây, mạt cưa, vỏ bào, rơm rạ nghiền lẫn. Việc tạo ra cối, dây, mồi, củi là cả một kỹ nghệ bí truyền, khi kéo lửa là cả một nghệ thuật tổng hợp của năm bảy nghệ nhân, từ người giữ cối đến người kéo, người thổi sao cho cối không bị gẫy, dây không bị đứt, giữ cối sao cho không bị nhấc khỏi mồi, kéo sao cho đủ nhanh, đủ mạnh tạo ra nhiệt thành lửa...
Khi có hiệu lệnh trống, các chàng trai của từng cối vào cuộc kéo lửa, chiêng trống và tiếng hò reo cổ vũ vang dậy. Cối nào kéo được lửa sớm sẽ được chấm theo thứ tự. Khi kéo lửa xong sang phần thi leo cây chuối lấy niêu. Bốn cây chuối hột loại to nhất nhì trong làng được phát hết lá, bóc lốp bẹ ngoài, bôi bùn trơn nhẵn, trên ngọn chuối treo một chiếc niêu nhất. Mỗi giáp cử một người leo. Giải cũng được chấm theo thứ tự thời gian lấy được niêu của các giáp.
Lấy niêu xong là phần thi chạy vượt sông giữa cánh đồng để lấy nước nấu cơm. Nước được đựng vào một chiếc đĩa cổ mang về vượt thời gian là rất khó khăn. Giải được chấm theo thứ tự giáp nào mang đĩa nước về đích sớm.
Khi đã có lửa, có niêu, có nước, cuộc thi nấu cơm cần bắt đầu. Niêu cơm được treo trên cần là một cây tre còn cả phần ngọn để trang trí, cây tre đường kính phần gốc chừng 3 cm, dài chừng 5m, một người vác cần, một người đỡ phần ngọn, bốn người cầm đuốc nấu cơm, một người vừa giữ cho niêu cơm thăng bằng vừa theo dõi khi cơm sôi phải ghế cho chín đều và điều chỉnh lửa. Thuở trước, niêu nấu cơm là niêu nhất bằng đồng nấu chừng một bò gạo, nay dùng xoong nhôm loại nhỏ. Trên mặt niêu cơm đặt một chiếc khăn thấm nước sao cho rước được nhiệt lên mà không quá lạnh đến mức tốn nhiệt. Khó khăn nhất là cả bốn cối đều phải chạy quanh sân theo hiệu lệnh của chủ khảo. Người vác cần chạy cho niêu cơm không bị sánh nước, người cầm đuốc chạy sao đưa lửa đều vào niêu, người giữ niêu tính thời gian biết khi cạn nước mở ra ghế mà đỡ mất nhiệt... Thông thường từ khi nấu đến khi cơm chín chạy đều trong khoảng 15 đến 20 phút và phải duy trì đều đặn các thao tác sao cho cơm chín sớm nhất, dẻo nhất, nếu bị khô, bị nhão, bị khê, bị sống sẽ bị trừ điểm.
Khi cả 4 cối đã hoàn tất việc nấu cơm, Ban giám khảo tính điểm. Điểm tổng thể dành cho cối nào nấu cơm nhanh nhất, cơm dẻo ngon nhất được giải. Còn các giải từng phần cũng được tính điểm để cộng tổng số như điểm kéo lửa, điểm leo cây chuối, điểm lấy nước, điểm thời gian nấu cơm, điểm chất lượng cơm... Khi chấm điểm xong, các niêu cơm được xới mang vào lễ Thánh.
Trong các phần thi, mỗi giáp đều có mẹo riêng được coi là những bí quyết không để lộ ra ngoài. Trước ngày khai hội nhiều ngày, các trai tráng được chọn phải tập luyện chu đáo từ việc kéo lửa đến các thao tác leo cây chuối, chạy vượt sông lấy nước, nấu cơm cần... Giải tổng thể hay giải từng phần tuy không lớn nhưng là điềm may cho cả giáp trong năm.
Tục thi nấu cơm cần trong hội làng Bạt Trung đã được các nghệ nhân trong làng đưa đi trình diễn tại nhiều lễ hội lớn của tỉnh Thái Bình trước đây và Hà Nội.
Ngoài tục thi kéo lửa nấu cơm cần, hội làng Bạt Trung còn có tục thi bịt mắt bắt gà vui nhộn, độc đáo. Người ta dùng lưới quây một góc sân đình thả 4 con gà của 4 giáp có đánh dấu riêng. Bốn chàng trai của bốn giáp được bịt mắt vào bắt. Ông trọng tài vừa gõ trống vừa xua đuổi gà chạy tán loạn, ai bắt đúng gà giáp mình thì được thưởng, ai bắt nhầm gà giáp khác thì tiếng cười vang dậy. Nay tục bắt gà đơn giản hơn là chỉ bắt một con.
Ngoài các trò dân gian truyền thống, những năm qua, hội làng Bạt Trung còn thêm nhiều trò vui mới.
Nguồn:baohungyen.vn