KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (10/10/1954 – 10/10/2024)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 27/01/2022 - Lượt xem: 140
Tăng cường chỉ đạo, đầu tư và phát triển phong trào thể dục, thể thao

Sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của thể dục thể thao, đặc biệt là nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thể dục, thể thao đã được nâng lên rõ rệt, từ đó tăng cường chỉ đạo, đầu tư và phát triển phong trào thể dục, thể thao. 

Ảnh minh họa
CHUYỂN BIẾN RÕ VỀ NHẬN THỨC VÀ TRÁCH NHIỆM
Sau 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW đã làm chuyển biến về nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác thể dục, thể thao. Hầu hết cấp ủy đảng, chính quyền đã tổ chức quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW. Cấp ủy, chính quyền đã quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo công tác quy hoạch, tuyên truyền, xây dựng tổ chức và bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý công tác thể dục, thể thao. Coi sự phát triển thể dục, thể thao là một phương thức hữu hiệu để nâng cao sức khỏe, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống, môi trường văn hóa lành mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; quần chúng nhân dân đã nhận thức được tầm quan trọng của thể dục, thể thao đối với việc nâng cao sức khoẻ và phòng, chống bệnh tật.
Trong đó, nổi bật là một số kết quả tích cực như sau:
Một là, về đổi mới chất lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và thể thao trong trường học. Chương trình môn học Giáo dục thể chất về cơ bản đã bảo đảm cung cấp kiến thức, kỹ năng và duy trì thói quen tập luyện thể dục, thể thao cho học sinh. Giờ học thể dục chính khóa trong nhà trường được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Tính đến cuối năm 2020, số trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất chính khóa đạt khoảng gần 100%. Nhiều nội dung tập luyện được đưa vào các hoạt động ngoại khoá, đặc biệt là các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian được lồng ghép với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đến nay, 100% các cơ sở giáo dục mầm non triển khai thực hiện nội dung, mục tiêu phát triển thể chất cho trẻ em theo hướng tích hợp với các hoạt động giáo dục khác trong chương trình giáo dục mầm non; 100% các trường phổ thông giảng dạy môn thể dục với thời lượng 2 tiết/tuần theo khung chương trình; 100% học sinh, sinh viên thực hiện đầy đủ chương trình chính khóa. Hằng năm, các trường phổ thông triển khai tổ chức kiểm tra, đánh giá và xếp loại thể lực học sinh. Đội ngũ giáo viên giáo dục thể chất và thể thao trường học đã được tăng cường, chất lượng chuyên môn được nâng cao.
Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện thể dục, thể thao của học sinh, sinh viên ngày càng phong phú, đa dạng và dần đi vào nền nếp. Hệ thống giải thi đấu thể thao trong học sinh, sinh viên được duy trì và phát triển như Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc, Hội thi Văn nghệ thể thao dân tộc Nội trú và Hội thi Nghiệp vụ Sư­ phạm - Văn nghệ - Thể dục Thể thao, Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc...
Hệ thống cơ sở vật chất, sân chơi, bãi tập, công trình thể thao, dụng cụ tập luyện thi đấu thể thao ở trường học các cấp bước đầu được quy hoạch và đầu tư xây dựng. Công tác xã hội hóa đối với công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học từng bước được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Nhiều đại hội, giải đấu thể thao học sinh, sinh viên đã thu hút đầu tư của đông đảo các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội, các đoàn thể, hiệp hội.
Hai là, việc phát triển thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục phát triển rộng rãi trong các đối tượng. Sự gia tăng số lượng người tập thể dục, thể thao thường xuyên, đa dạng các loại hình tập luyện, các câu lạc bộ và chất lượng của các hoạt động thể dục, thể thao.
Thể dục, thể thao trong lứa tuổi thanh thiếu nhi tiếp tục được đẩy mạnh, như phong trào “Khỏe để lập nghiệp và giữ nước”; nhiều hoạt động văn hóa, thể thao tại các Cung, Nhà Thiếu nhi, Trung tâm hoạt động Thanh thiếu nhi, Trung tâm Văn hóa - Thể thao đã thu hút đông đảo thanh thiếu niên, nhi đồng tham gia.
Thể dục, thể thao Người cao tuổi được phát triển rộng khắp, đặc biệt là ở thành phố, thị xã, thị trấn. Việc tập luyện thể dục, thể thao đã trở thành một nhu cầu thiết yếu đối với người cao tuổi, góp phần nâng cao sức khỏe, tuổi thọ, từng bước cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Phong trào TDTT đã thu hút từ 15-20% người cao tuổi ở nông thôn và trên 60% người cao tuổi ở thành phố, thị xã tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
Thể thao người khuyết tật được quan tâm phát triển, góp phần động viên, cổ vũ, tạo điều kiện cho người khuyết tật hoà nhập với cộng đồng. Đoàn thể thao người khuyết tật đã đạt nhiều thành tích xuất sắc tại Đại hội thể thao người khuyết tật Đông Nam Á, châu Á và thế giới. Hiện có 45/63 tỉnh/thành phố duy trì thường xuyên hoạt động thể dục, thể thao cho người khuyết tật.
Các địa phương đã quan tâm triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các khu công nghiệp đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến 2030 và Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030 từng bước được triển khai thực hiện, góp phần tổ chức các cơ sở hoạt động văn hóa, thể thao; đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, thể thao; nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, tác dụng của dinh dưỡng và tập luyện thể dục, thể thao đối với nâng cao sức khoẻ.
Ba là, có sự chuyển biến tích cực trong đào tạo tài năng thể thao, thể thao thành tích cao có nhiều chuyển biến tích cực, thành tích ở một số môn thể thao Olympic được nâng cao. Kết quả thi đấu của các môn thể thao trọng điểm, có thế mạnh đã có những khởi sắc rõ rệt. Thể thao Việt Nam liên tục xếp hạng trong 3 quốc gia dẫn đầu tại các kỳ SEA Games.
Công tác chuẩn bị lực lượng vận động viên; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham gia điều hành, tổ chức các sự kiện thể thao quốc tế được tăng cường. Hằng năm tổ chức tập huấn cho trên 2.000 vận động viên các đội tuyển thể thao quốc gia để sẵn sàng tham dự các sự kiện thể thao quốc tế. Hằng năm, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ trọng tài, cán bộ thể thao nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tổ chức các sự kiện thể thao quốc tế tại Việt Nam. Cả nước có gần 2.000 trọng tài quốc gia và trên 300 trọng tài cấp quốc tế. Lực lượng cán bộ, trọng tài cơ bản đáp ứng yêu cầu tổ chức, điều hành các đại hội thể thao quốc tế có quy mô khu vực, châu lục.
Hoàn thành tốt nhiệm vụ đăng cai tổ chức các giải thể thao đỉnh cao, các kỳ Đại hội thể thao khu vực và châu lục được các tổ chức, liên đoàn thể thao quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, việc tổ chức thành công Đại hội Thể thao Bãi biển Châu Á lần thứ 5 năm 2016 được Hội đồng Olympic châu Á và các đoàn tham dự đánh giá là một kỳ Đại hội thể thao thành công, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với bạn bè quốc tế. Hiện nay, các bộ, ngành, địa phương đang tích cực phối hợp chuẩn bị cơ sở vật chất và các điều kiện khác để tổ chức SEA Games 31 và ASEAN Para Games 11.
Công tác phòng, chống các hành vi tiêu cực trong lĩnh vực thể dục, thể thao được triển khai thường xuyên, liên tục với nhiều biện pháp quyết liệt. Công tác phòng, chống và kiểm tra Doping được triển khai kịp thời tới các Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia và các cơ sở đào tạo của các địa phương. Chủ động phối hợp với cơ quan công an trong việc triển khai các biện pháp phòng, chống tiêu cực trong thể thao, đặc biệt là bóng đá.
Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ. Trong những năm qua, công tác định hướng và triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ thể dục, thể thao đã có sự biến chuyển, chất lượng nghiên cứu khoa học từng bước được nâng cao. Hệ thống tổ chức các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ thể dục, thể thao tương đối đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở. Ở Trung ương, có 10 đơn vị có chức năng nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ thể dục, thể thao. Tại một số địa phương có phong trào thể dục, thể thao phát triển mạnh, như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có đơn vị cấp phòng thuộc sở văn hóa, thể thao và du lịch có chức năng tổ chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
Đội ngũ đông đảo các nhà khoa học tâm huyết đóng góp cho sự phát triển ngành thể dục, thể thao. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học được thực hiện và ứng dụng vào thực tiễn. Đặc biệt, có nhiều nghiên cứu khoa học, đề án, quy hoạch phục vụ cho công tác quản lý và phát triển thể dục, thể thao.
Công tác đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị khoa học hiện đại cho các tổ chức khoa học và công nghệ được quan tâm, chú trọng. Hoạt động thông tin khoa học, công nghệ thể dục, thể thao có bước phát triển và đạt được những kết quả nhất định. Việc cập nhật những thành tựu khoa học và công nghệ mới, các kết quả của các công trình khoa học đã góp phần truyền tải thông tin khoa học, hỗ trợ đắc lực cho nghiên cứu, ứng dụng trong các hoạt động của Ngành thể dục thể thao.
Năm là, đổi mới tổ chức, quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát triển các tổ chức xã hội về thể dục, thể thao, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thể dục, thể thao được kiện toàn, từng bước nâng cao năng lực, hoạt động hiệu quả. Việc phân cấp quản lý trong lĩnh vực thể dục, thể thao được tăng cường.
Phương thức lãnh đạo, quản lý nhà nước về thể dục, thể thao có nhiều đổi mới. Tăng cường công tác thể chế hóa, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thể dục, thể thao. Đẩy mạnh phân cấp quản lý thể dục, thể thao từ Trung ương tới địa phương nhằm tạo điều kiện, phát huy nguồn lực xã hội và chuyển giao hoạt động tác nghiệp cho các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia. 
Công tác đổi mới cơ chế, chính sách về xã hội hóa và tự chủ trong lĩnh vực thể dục, thể thao được tăng cường đã tạo ra hành lang pháp lý, tạo điều kiện phát triển các loại hình hoạt động và doanh nghiệp thể thao.
Đã có sự quan tâm xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách đối với vận động viên, huấn luyện viên thể thao thành tích cao. Các vận động viên đạt thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu cao quý và chế độ ưu tiên trong xét tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng Thể dục thể thao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn được quan tâm. Hằng năm, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác đào tạo sau đại học được chú trọng nhằm xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn sâu. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thể dục, thể thao ở cơ sở được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ trong “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới”.
Phát huy vai trò của Ủy ban Olympic Việt Nam, các liên đoàn, hiệp hội thể thao trong điều hành các hoạt động thể dục, thể thao. Các hội thể thao quốc gia đã chủ động, tích cực và phối hợp tổ chức tuyển chọn, đào tạo, cử lực lượng vận động viên tham dự các giải thể thao quốc tế. Việc thành lập các Liên đoàn, Hiệp hội thể thao quốc gia được triển khai tích cực để từng bước chuyển giao các hoạt động tác nghiệp và hợp tác với các tổ chức thể thao quốc tế. Hợp tác quốc tế về thể dục, thể thao ngày càng được mở rộng. Thể thao Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; là thành viên của hầu hết các tổ chức thể thao quốc tế, châu lục và khu vực,...
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW còn có một số tồn tại, hạn chế như: một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, chưa có sự phối hợp chặt chẽ và bố trí đầu tư nguồn lực cho công tác thể dục, thể thao. Quản lý nhà nước về thể dục, thể thao còn chậm đổi mới trước cơ chế thị trường, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thiếu hành lang pháp lý, cơ chế quản lý để phát triển thể thao chuyên nghiệp. Thể dục, thể thao quần chúng còn hạn chế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ và y học thể dục, thể thao còn nhiều hạn chế. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, ý chí, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài ở cơ sở chưa được quan tâm.
GÓP PHẦN XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Thể dục, thể thao là chính sách kinh tế - xã hội quan trọng và là phương thức phát triển con người toàn diện, góp phần nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, đảm bảo an sinh xã hội, chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của cá nhân và toàn xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, nếp sống văn minh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế, khẳng định vị thế, hình ảnh Việt Nam. Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW hiệu quả, cần đẩy mạnh phong trào rèn luyện sức khỏe rộng khắp trong toàn dân, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Phấn đấu đến năm 2030, có trên 50% dân số tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên, 95% số trường học đạt được các điều kiện tiêu chuẩn về giáo dục thể chất. Nâng cao thành tích thể thao ở đấu trường châu lục và thế giới ở những môn thể thao có thế mạnh. Hoàn thành quy hoạch, xây dựng các thiết chế thể dục, thể thao đạt chuẩn và hệ thống thi đấu, đào tạo, chương trình hỗ trợ vận động viên. Phát triển thể thao chuyên nghiệp và một số môn thể thao nhà nghề. Kinh tế thể thao trở thành ngành kinh tế quan trọng, đến năm 2030 đóng góp từ 1-2% GDP. 
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tham gia của hệ thống chính trị, sự phối hợp hiệu quả của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong công tác thể dục, thể thao.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực thể dục, thể thao. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về tư duy, nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác thể dục, thể thao.
Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cấp, các ban, bộ, ngành, đoàn thể trong triển khai chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án phát triển thể dục, thể thao; quản lý, sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất thể dục, thể thao. Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản về thể dục, thể thao vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch của địa phương, đơn vị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế thể thao cơ sở.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tập luyện thể dục, thể thao; lồng ghép công tác thể dục, thể thao vào phong trào và cuộc vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm giám sát, phản biện và phản ánh với cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác thể dục, thể thao. 
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển thể dục, thể thao
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, tạo chuyển biến sâu sắc về tư duy, nhận thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về vai trò của thể dục, thể thao đối với bảo vệ, nâng cao sức khỏe, tầm vóc, góp phần nâng cao năng suất lao động, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. 
Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thể dục, thể thao; kiến thức, kỹ năng hoạt động thể chất; thể dục phòng, chữa bệnh bằng hình thức phù hợp với từng đối tượng, phát huy hiệu quả của truyền thông đại chúng, mạng xã hội; lồng ghép trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, hoạt động cộng đồng, câu lạc bộ, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, du lịch.
Thứ ba, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước; đổi mới phương thức quản lý, điều hành trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thể dục, thể thao đáp ứng yêu cầu phát triển thể thao chuyên nghiệp, thể thao nhà nghề, kinh tế thể thao và phù hợp với các cam kết quốc tế; bổ sung chính sách đối với các đối tượng hoạt động nghề nghiệp trong lĩnh vực thể dục, thể thao. Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở vật chất kỹ thuật thể dục, thể thao. Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức xã hội đầu tư xây dựng và vận hành các cơ sở thể thao, tham gia tổ chức thi đấu, đào tạo vận động viên và cung cấp dịch vụ thể dục, thể thao.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và đổi mới quản lý nhà nước về thể dục, thể thao theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng cơ chế hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước với các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia trong quản lý, điều hành lĩnh vực thể thao. Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp sang cung ứng dịch vụ công. Tổ chức cung ứng dịch vụ thể dục, thể thao theo các chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong lĩnh vực thể dục, thể thao. Phát triển nguồn nhân lực quản lý và tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao. 
Thứ tư, đẩy mạnh phát triển thể dục, thể thao cho mọi người; đổi mới giáo dục thể chất và thể thao trường học; phát triển thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp và một số môn thể thao nhà nghề
Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” trong cộng đồng dân cư, các cơ quan, đơn vị, khu công nghiệp. Xây dựng hệ thống chỉ số rèn luyện và đánh giá thể lực con người Việt Nam, ứng dụng công nghệ số trong đánh giá chất lượng thể dục, thể thao quần chúng và hướng dẫn người dân tập luyện thể dục, thể thao. Tăng cường thể dục, thể thao thích ứng với người khuyết tật. Tiếp tục bảo tồn và quảng bá các loại hình thể thao dân tộc, trò chơi dân gian. Phát triển mạnh các dịch vụ thể thao đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Xây dựng mạng lưới hướng dẫn viên, tình nguyện viên thể dục, thể thao ở cơ sở.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục thể chất và thể thao trường học, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên. Tăng cường đầu tư, quản lý, sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ giáo dục thể chất và thể thao trường học.

Đẩy mạnh công tác huấn luyện thể lực, thi đấu thể thao trong lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang tinh nhuệ, hiện đại. Phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trong việc phát triển thể dục, thể thao, nhất là ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hoàn thiện hệ thống đào tạo vận động viên và thi đấu thể thao; phát triển thể thao chuyên nghiệp và một số môn thể thao nhà nghề. Xây dựng chiến lược đào tạo, chương trình hỗ trợ vận động viên. Tạo cơ chế liên kết giữa cơ sở đào tạo vận động viên với viện nghiên cứu và các liên đoàn, câu lạc bộ, doanh nghiệp thể thao. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, y học thể thao trong đào tạo vận động viên.
Thứ năm, phát triển kinh tế thể thao, huy động nguồn lực tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao hiệu quả đầu tư cho sự nghiệp thể dục, thể thao
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thể thao, đưa thể thao trở thành một ngành kinh tế. Xây dựng thiết chế hiệp hội và hệ thống chỉ số đánh giá sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thể thao. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, cơ chế quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thể thao. Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu, thị trường và dịch vụ thể thao. Thí điểm tổ chức, tiến tới triển khai mô hình đặt cược, xổ số thể thao để tạo nguồn thu tái đầu tư phát triển thể dục, thể thao.
Tăng cường các nguồn lực đầu tư, đổi mới phương thức phân bổ ngân sách sự nghiệp thể dục, thể thao. Đẩy mạnh xã hội hóa, thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ thể dục, thể thao. Đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa các Trung tâm huấn luyện, Khu liên hợp thể thao quốc gia, các cơ sở đào tạo vận động viên, nghiên cứu khoa học và y học thể thao, cơ sở vật chất thể dục, thể thao gắn với phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa địa phương,…
Nguồn: https://tuyengiao.vn

 

Tin liên quan