KHÓ KHĂN TRONG TIẾN TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA ASEAN
Đẩy mạnh chuyển đổi số để phục hồi ASEAN sau đại dịch và nâng cao khả năng cạnh tranh của khu vực trong trung và dài hạn được xem là 1 trong 5 chiến lược phục hồi chính của Khung phục hồi tổng thể ASEAN, đó là: tăng cường hệ thống y tế; Bảo đảm an ninh con người; Thúc đẩy thị trường và liên kết nội khối; Đẩy mạnh chuyển đổi số; Phát triển bền vững.
Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng nóng song truy cập Internet cũng như tiến trình số hóa ở Đông Nam Á vẫn chưa đồng nhất, vẫn còn sự phân chia trong tiến trình tiếp cận kỹ thuật số và nhiều vấn đề làm lu mở quá trình chuyển đổi kỹ thuật số trong khu vực. Những thách thức mà ASEAN đang phải đối diện trong tiến trình chuyển đổi số, đó là:
Thứ nhất, tồn tại khoảng cách phát triển kỹ thuật số trong khu vực. Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng kỹ thuật số nhanh song truy cập Internet cũng như tiến trình số hóa ở Đông Nam Á về tổng thể vẫn chưa đồng nhất, tồn tại sự phân chia trong tiếp cận kỹ thuật số giữa các nước thành viên ASEAN và ngay trong chính bản thân mỗi nước. Sự phân hóa kỹ thuật số thể hiện rõ ở ở các vùng nông thôn Đông Nam Á. Thêm nữa, những rào cản về pháp lý khiến chất lượng dịch vụ công trực tuyến, quá trình xây dựng Chính phủ điện tử trong khu vực còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến việc người dân, doanh nghiệp tiếp cận bình đẳng các dịch vụ số và thúc đẩy việc xây dựng nền kinh tế số và xã hội số.
Thứ hai, hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế. Mặc dù tiến trình chuyển đổi số của ASEAN đạt nhiều triển vọng và tiềm năng song tình trạng thiếu hụt cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông là một trong những rào cản đối với tăng trưởng kinh tế số ở ASEAN, đặc biệt là các nước “tầm trung” trong khối.
Quá trình chuyển đổi số chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế. Thể chế và quy định pháp luật cho chuyển đổi số và các hoạt động kinh tế số của Việt Nam được đánh giá là chậm hoàn thiện. Chưa ban hành chiến lược tổng thể quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số. Chưa có hành lang pháp lý cho việc thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới.
Các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa tạo nên “xương sống” của nền kinh tế số ở ASEAN. Có tới 3/4 số doanh nghiệp trong khu vực xem xét nghiên cứu những cơ hội mà hội nhập kinh tế số đem lại song chỉ có 16% số doanh nghiệp hoàn toàn làm chủ được công nghệ số.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối dữ liệu gặp nhiều khó khăn. Kết nối dữ liệu là bài toán khó đối với Việt Nam. Nhiều bộ, ngành xây dựng cơ sở dữ liệu manh mún và phân tán, thiếu sự kết nối liên thông. Để những mô hình nền tảng dịch vụ về công nghệ, những mô hình dịch vụ công nghệ số triển khai tốt, đảm bảo thì rất cần có sự kết nối chia sẻ dữ liệu từ các cơ quan Nhà nước.
Nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt cũng là yếu tố thách thức, trở ngại đối với phát triển kinh tế số. Tiền mặt được sử dụng nhiều trong các giao dịch thương mại điện tử thể hiện sự thiếu niềm tin và tôn trọng lẫn nhau và làm giảm rất nhiều khả năng kết nối thành công các giao dịch.
Thứ ba, những quy định thương mại số ở các nước ASEAN vẫn mang tính chắp vá. Các chính sách quan trọng như sự cởi mở dữ liệu và tính riêng tư vẫn chưa được phát triển ở các nước ASEAN.
Mặc dù ASEAN có Hiệp định thương mại tự do lớn nhất khu vực, đó là: Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP – Regional Comprehensive Economic Partnership) song những hiệp định thương mại số hiện mới đang bắt đầu hình thành, như Hiệp định Đối tác kinh tế số (DEPA – Digital Economic Partnership Agreement) và Hiệp định Kinh tế số (DEA – Digital Economic Agreement). Hiệp định Đối tác Kinh tế số (DEPA) đã có hiệu lực tại Chile năm 2021. DEPA là Hiệp định đi đầu trong phát triển kinh tế kỹ thuật số nhằm thiết lập hệ sinh thái kỹ thuật số chung dựa trên các nguyên tắc hiện đại nhất của thương mại điện tử cũng như bao gồm các khía cạnh mới liên quan đến cách mạng kỹ thuật số, như Trí tuệ nhân tạo hoặc Nhận dạng kỹ thuật số.
Hiệp định DEPA khu vực phức tạp hơn rất nhiều so với Hiệp định DEA song phương. Điều đó cho thấy còn có nhiều thách thức. Tuy nhiên, Hiệp định DEPA sẽ là bước tiến quan trọng để ASEAN thực hiện những tham vọng về kỹ thuật số. Đây là hai hiệp định thương mại tự do mới liên quan đến những vấn đề kinh tế số mang tính tổng thể và những vấn đề mang tính xuyên suốt như dòng chảy dữ liệu và công nghệ mới nổi.
Thứ tư, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi số. Nhân tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và chuyển đổi số là nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực công nghệ thông tin. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của nền kinh tế số. Thương mại điện tử đóng góp chính cho sự phát triển kinh tế số nhưng nguồn nhân lực trong lĩnh vực này đòi hỏi lao động vừa có kiến thức về công nghệ, vừa phải hiểu biết về thương mại để nắm bắt kịp thời các xu hướng mới, ứng dụng một cách hiệu quả nhất, an toàn nhất. Tuy vậy, các kỹ năng này đều là điểm yếu của lao động của các nước ASEAN và Việt Nam. Các kỹ năng chuyên ngành công nghệ thông tin mà thương mại điện tử khó tuyển dụng gồm kỹ năng khai thác, sử dụng các ứng dụng thương mại điện tử kỹ năng quản trị, kỹ năng xây dựng kế hoạch, triển khai dự án, kỹ năng quản trị cơ sở dữ liệu.
Thiếu hụt nhân lực là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chuyển đổi số tại Việt Nam. Nguồn nhận lực công nghệ thông tin của Việt Nam ít về số lượng, chưa bảo đảm về chất lượng.
Việt Nam có khoảng 900.000 nhân lực công nghệ thông tin, trong đó có số lượng lớn kỹ sư về trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence), internet vạn vật (IoT - Internet of Things), khoa học dữ liệu. Mặc dù, số người được cấp chứng chỉ nhiều, chất lượng có được cải thiện. Tuy nhiên, nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam vẫn xếp hạng trung bình khá về chất lượng, về lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong kinh tế số khi so với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế số của không chỉ Việt Nam mà cả khu vực ASEAN.
Thứ năm, thách thức về an ninh mạng, bảo mật an toàn thông tin. Ngoài những vấn đề liên quan đến chính sách và quy định, vấn đề về tiêu chuẩn tương tác bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng là rào cản.Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, internet luôn chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể tham gia kinh tế số. Mặc dù nhóm 6 nước phát triển hơn trong ASEAN có những luật lệ cụ thể về vấn đề này, song mỗi nước lại có những tiêu chuẩn rất khác biệt khi áp dụng.
Chuyển đổi số vẫn là một quá trình không hề dễ dàng với các doanh nghiệp khi gặp những thách thức như khả năng tiếp cận các thông tin, tài liệu, chuyên gia hỗ trợ; khả năng kết nối với các giải pháp trên thị trường; khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Các chỉ số về thanh toán điện tử, tỷ lệ giao dịch kỹ thuật số tại Việt Nam còn thấp. Đặc biệt, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi số quốc gia, nhiều quy định liên quan đến chuyển đổi số đang được xây dựng, hình thành như tiêu chuẩn công nghệ, giao dịch thương mại điện tử, chứng thực số, thuế, hải quan. Bảo đảm an ninh mạnglà những thách thức quan trọng đối với các nước đang phát triển có nguồn lực và khả năng bị hạn chế.
Chuyển đổi số (Digital Transformation) là sự tích hợp công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp, tận dụng công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp giá trị mới cho khách hàng cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số khác với Số hóa (Digitizing). Số hóa là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (như chuyển tài liệu từ dạng giấy sang các file mềm trên máy tính; số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số…). Trong khi chuyển đổi số là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Số hóa được xem như một phần của quá trình chuyển đổi số. |
ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA ASEAN
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế số - nền kinh tế của tương lai, giúp cho phép kinh doanh hiệu quả hơn, phát triển đồng đều hơn, mở rộng cơ hội việc làm với cách thức làm việc hoàn toàn mới, tăng năng suất, hiệu quả và tăng thu nhập. Để đạt mục tiêu trở thành một trong 5 nền kinh tế số hóa trên thế giới trước năm 2025, ASEAN đang tập trung vào những giải pháp mở rộng phát triển kinh tế số, đó là:
Thứ nhất, mở rộng kết nối không gian mạng - xương sống của nền kinh tế số. Với 125.000 người dùng mới truy cập internet mỗi ngày, nền kinh tế kỹ thuật số ASEAN dự kiến sẽ phát triển đáng kể, bổ sung ước tính khoảng 1 nghìn tỷ USD vào GDP khu vực trong mười năm tới.
Riêng Việt Nam có 68,17 triệu người (1/2020) sử dụng internet (chiếm 70% dân số). Trong đó, số người lên mạng trên điện thoại di động lên đến 3,6 giờ mỗi ngày, cao hơn nhiều so với các khu vực khác.
Thời gian sử dụng internet và tỉ lệ người sử dụng internet cao sẽ được nâng lên khi ASEAN có chính sách và hành động nhằm giảm giá thành, tăng tốc độ và tăng độ phủ sóng internet băng thông rộng đáng tin cậy đến các khu vực chưa được phục vụ. Tại các quốc gia thu nhập trung bình trong khu vực, chỉ có 2 trong số 5 người được tiếp cận internet di động tốc độ cao (mạng 4G). Trong khi ở các quốc gia thu nhập thấp, tỷ lệ đó chỉ là 1 trong số 5 người. Vì vậy, ASEAN cần sự phối hợp chủ động giữa khu vực công và tư cũng như phương thức quản lý nhà nước chủ động để khơi thông những khoản đầu tư cần thiết về hạ tầng số và nâng cao tính cạnh tranh trong ngành viễn thông.
Các nước ASEAN tích cực đầu tư vào nhiều dự án phát triển thông tin, truyền thông với khoảng 100 tỷ USD năm 2015. Nổi bật trong đó là các sáng kiến tạo ra một ASEAN phẳng, không chuyển vùng quốc tế, thành lập trường đại học về công nghệ thông tin và truyền thông của ASEAN nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Thành lập Trung tâm chia sẻ thông tin an ninh mạng ASEAN.
Thứ hai, khuyến khích thanh toán số. Thanh toán số là một trong những trụ cột căn bản để tạo nên nền kinh tế số. Tuy nhiên, thanh toán số vẫn chưa phát triển ở Đông Nam Á so với những nơi khác trên thế giới. Ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, thanh toán vẫn chủ yếu bằng tiền mặt
Đông Nam Á vẫn phụ thuộc vào tiền mặt nhưng số lượng người dân thanh toán bằng tiền mặt đã giảm từ 40% năm 2019 xuống 34% năm 2020. Để tạo môi trường thuận lợi về tài chính số, ASEAN tiếp tục triển khai các hệ thống định danh số hiện đại cùng với hàng loạt những quy định. Đồng thời, các khoản chi trả của chính phủ, lương hưu, hỗ trợ tài chính có điều kiện và các chương trình xã hội khác - cũng được áp dụng công nghệ số.
Thứ ba, nâng cao kiến thức về đồng tiến kỹ thuật số và kỹ năng mềm cho người lao động. Đồng tiền kỹ thuật số chung cho khu vực ASEAN sẽ mang lại nhiều lợi ích, làm giảm đáng kể thời gian và chi phí thực hiện các giao dịch và thanh toán xuyên biên giới. Việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ diễn ra giữa người dân và doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực sẽ thuận lợi hơn khi sử dụng chung một loại tiền tệ để thanh toán thay vì phải quy đổi ra tiền tệ của đối tác như hiện nay.
Hệ thống giáo dục cần linh hoạt hơn trong việc phát triển các kỹ năng cần thiết để vận hành trong nền kinh tế kỹ thuật số. Những kỹ năng bao gồm: kiến thức máy tính cơ bản, kỹ năng nâng cao như mã hóa và phân tích dữ liệu. Kỹ năng mềm như hợp tác và giao tiếp cũng rất cần thiết. Kỹ năng của lực lượng lao động trong khu vực ASEAN được bắt nhịp cùng với chuyển đổi công nghệ số đang diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế và giáo dục có vai trò chính trong việc phát triển kiến thức kỹ thuật và kỹ năng mềm của nền kinh tế số đầy tính cạnh tranh. Khi công nghệ đang thay đổi với tốc độ nhanh, khả năng thích ứng và học trọn đời càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, cần có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa khu vực công và khu vực tư. Để thúc đẩy phát triển kinh tế số, ASEAN cần có cam kết hơn nữa về phát triển nguồn nhân lực số và tạo điều kiện di chuyển lao động có kỹ năng, trình độ chuyên môn cao trong khu vực.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc) và các đại biểu thực hiện nghi thức khai trương hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ E-Cabinet, ngày 24/6/2019.
Thứ tư, phát triển ngành dịch vụ hậu cần logistics. Kinh tế số ở Đông Nam Á không thể chỉ phụ thuộc vào những nền tảng ảo. Hậu cần vẫn là một rào cản trong thương mại điện tử và việc đưa sản phẩm đến được điểm đến với chi phí hiệu quả và đáng tin cậy là một trong những thách thức lớn nhất. Ngành logistics vận hành tốt là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế số, đặc biệt là thương mại điện tử. Các lô hàng thương mại điện tử phải đối mặt với các thủ tục hải quan - là lĩnh vực hoạt động yếu nhất trong lĩnh vực hậu cần của khu vực ASEAN. Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics được thể hiện thông qua giảm chi phí logistics và cải thiện chất lượng dịch vụ. Hợp lý hóa thủ tục hải quan có thể tạo điều kiện để vận chuyển nhanh hơn, rẻ hơn, dễ đoán biết hơn.
Hậu cần logistics phát triển góp phần hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Hậu cần cung cấp các dịch vụ đa dạng, trọn gói có tác dụng giảm rất nhiều các loại chi phí giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Cùng với việc phát triển hậu cần điện tử (electronic logistics) khiến cho chi phí giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ hậu cần ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa mọi cản trở về không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông. Các dịch vụ hậu cần hiệu quả sẽ làm giảm mức chi phí đầu vào của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong khối ASEAN. Nhờ đó, hoạt động thương mại, đầu tư và liên kết ASEAN tăng lên, bảo đảm chống lại sự dao động giá cả trong khu vực, tạo ra thị trường khu vực ngày càng phát triển. Giảm chi phí từng khâu trong dịch vụ hậu cần là phương pháp cạnh tranh tối ưu nhất của ASEAN.
Thứ năm, mở rộng liên kết hội nhập khu vực. Đại dịch COVID-19 đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ASEAN nhìn nhận, cân nhắc những hướng đi mới trong tương lai, khẳng định sự cần thiết gắn kết giữa các quốc gia trong khu vực để nâng cao phát triển con người cũng như kinh tế. ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác về công nghệ thông tin với Hàn Quốc nhằm thúc đẩy nền kinh tế số trong khu vực bởi hợp tác với Hàn Quốc sẽ giúp các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa của ASEAN nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.
Để mở rộng và kết nối hội nhập khu vực, ASEAN đưa ra các quy định và tạo thuận lợi cho giao dịch giữa các quốc gia Đông Nam Á nhằm tạo ra một thị trường số tích hợp đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng trong khu vực. ASEAN hỗ trợ và thúc đẩy sự hợp tác với khu vực tư nhân trong việc ban hành các chính sách. Bởi chỉ có hợp tác với khu vực tư nhân mới giúp gây dựng được lòng tin vững chắc, là cách tiếp cận tốt hơn với kinh tế số. Tham gia hợp tác khu vực sẽ đảm bảo Đông Nam Á có vị thế tốt hơn để khai thác toàn bộ tiềm năng của nền kinh tế kỹ thuật số.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu tại Diễn đàn “Chuyển đổi số nông nghiệp Việt Nam 2021: Bắt kịp các xu thế thị trường, phát huy vai trò trụ đỡ của nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch và hậu đại dịch COVID-19", ngày 16/9/2021.
Thứ sáu, ban hành các quy định và tiêu chuẩn hóa nhằm xử lý rủi ro liên quan đến chuyển đổi số. Đẩy mạnh chuyển đổi số để phục hồi trong ASEAN là 1 trong 5 chiến lược phục hồi chính của Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Kế hoạch triển khai sau dịch bệnh COVID-19 bao gồm: Tăng cường hệ thống y tế; bảo đảm an ninh con người; thúc đẩy thị trường và liên kết nội khối; đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng tương lai bền vững, tự cường. Để thúc đẩy xu hướng chuyển đổi số, ASEAN đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các chính sách khu vực, bao gồm khuôn khổ thanh toán xuyên biên giới, kế hoạch thúc đẩy sản xuất thông minh và hỗ trợ phát triển hệ sinh thái 5G. Triển khai Sáng kiến ASEAN số nhằm góp phần vào quá trình chuyển đổi. Cùng với tốc độ chuyển đổi như vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng số và đầu tư kỹ năng số sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh.
Dịch COVID-19 đã mang đến “một thế giới hoàn toàn mới”. Theo đó, việc nắm bắt các cơ hội phát triển từ kinh tế số ở “thế giới hoàn toàn mới” có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tăng cường kết nối, nâng cao vị thế của ASEAN. Với quy mô khu vực, nền kinh tế số ASEAN sẽ rút ngắn được khoảng cách với những thị trường phát triển hơn về tỷ lệ đóng góp vào GDP. Phát triển kinh tế số sẽ giúp cộng đồng ASEAN gắn kết chặt chẽ hơn, là cơ hội để các quốc gia ASEAN thay đổi vị thế, tăng năng suất lao động và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP. Năm 2025, Đông Nam Á có tiềm năng trở thành 1 trong 5 nền kinh tế số lớn nhất thế giới. Hiện tất cả quốc gia thành viên đã ký kết nhiều thỏa thuận nhằm thúc đẩy khu vực hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Dự báo, nền kinh tế số khu vực ASEAN sẽ tăng gấp 3 lần, chạm mức 300 tỷ USD, trong đó kinh tế số Việt Nam có triển vọng bứt phá lên 43 tỉ USD (2025). |
Đông Nam Á tập trung ưu tiên các quy định và tiêu chuẩn hiệu quả cho giao dịch điện tử, lưu chuyển dữ liệu qua biên giới, an ninh mạng, bảo mật dữ liệu và bảo vệ người tiêu dùng. Tăng cường hợp tác an ninh mạng và nâng cao năng lực sẽ đặt dưới sự điều phối của Ủy ban điều phối an ninh mạng ASEAN (ASEAN Cybersecurity Coordination Committee). Các biện pháp thực chất trong lĩnh vực bảo đảm chuyển đổi số là thiết yếu để xây dựng lòng tin với những nền tảng trực tuyến, và hình thành nên các nền kinh tế số an toàn và bền vững./.
Nguồn: https://tuyengiao.vn