ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT, LÀ CẦU NỐI GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
Ở Việt Nam, đội ngũ đảng viên là lực lượng nòng cốt, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, là nhân tố kết nối, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức cùng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Người luôn nhắc nhở “mỗi đảng viên... phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”(1), phải “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”(2). Tiếp thu tinh thần đó, Đảng ta cũng luôn chú trọng đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên.
Theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên “là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân”(3).
Trong 10 năm qua (từ 2010-2020), công tác xây dựng đội ngũ đảng viên ở nước ta đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Tính đến 31/12/2021, toàn Đảng có tổng số 5.325.532 đảng viên. Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, số lượng đảng viên tăng mạnh mẽ qua các nhiệm kỳ. Trung bình 10 năm qua, mỗi năm tăng 143.357 đảng viên. Đến nay tỷ lệ đảng viên trên dân số cả nước là 5,4% (bình quân 100 người dân có khoảng 6 đảng viên)”(4).
Ngoài sự gia tăng liên tục về số lượng, cơ cấu độ tuổi của đảng viên tương đối phù hợp về số lượng đảng viên nữ, trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, người có tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân tăng, tạo nguồn cán bộ cho Đảng. “Đảng viên nữ chiếm 38,1% tổng số đảng viên toàn Đảng, sau 10 năm, tỷ lệ đảng viên nữ tăng gấp 1,8 lần so với tỷ lệ tăng đảng viên của toàn Đảng. Đảng viên là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 12,3%. Đảng viên là người có tôn giáo chiếm 1,8%. Độ tuổi trung bình của đảng viên là 43,9 tuổi (tăng 0,1 tuổi so với năm 2010)”(5). Chất lượng đội ngũ đảng viên có chuyển biến tích cực; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị ngày càng cao hơn (đảng viên có trình độ đại học trở lên chiếm khoảng 55%; có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên hơn 60%.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc hội nghị. Ảnh: TTXVN.
Trên cơ sở đó, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Đảng ta đã đánh giá khái quát những kết quả đạt được trong công tác phát triển đảng viên thời gian qua. Đó là: “Công tác phát triển đảng viên được chú trọng; số lượng đảng viên nữ, trẻ, người dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân tăng. Chất lượng đội ngũ đảng viên chuyển biến tích cực, trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị được nâng cao hơn. Phần lớn đội ngũ đảng viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tự phê bình và phê bình, tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân”(6). Nhận định trên cho thấy những chuyển biến tích cực trong công tác phát triển đảng viên, cả về số lượng, cơ cấu, chất lượng; đặc biệt là những chuyển biến tích cực trong nội tại của bản thân đội ngũ đảng viên như tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống… Có được những kết quả đó một mặt do thời gian qua, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, nhưng mặt khác cũng do chính bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có những nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân. Điều đó góp phần quan trọng trong việc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ.
Bên cạnh việc đánh giá những chuyển biến tích cực, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, với tinh thần “nhằn thẳng sự thật, nói đúng sự thật”, Đảng ta cũng chỉ rõ những hạn chế trong công tác phát triển đảng viên hiện nay. Đó là: “Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Nhận thức về Đảng, động cơ phấn đấu vào Đảng của không ít đảng viên chưa đúng, không trong sáng. Cơ cấu đảng viên chưa hợp lý; tỉ lệ đảng viên trẻ chưa tương xứng với tiềm năng”(7). Đây là những nhận định rất toàn diện về những hạn chế trên các mặt như năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, động cơ chính trị… của đảng viên hiện nay. Nhận định này dựa trên kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn về tình hình đảng viên thời gian qua và xuất phát từ tinh thần khách quan, thẳng thắn của Đảng. Không phải trong những năm gần đây, Đảng ta liên tục đưa ra những nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012), khóa XII (năm 2016), khóa XIII (năm 2021). Một trong những nguyên nhân quan trọng là do tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đảng viên ngày càng nghiêm trọng. Đúng như Đảng ta từng cảnh báo: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc”(8).
Trước tình hình đó, việc Đảng ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA TÌNH HÌNH MỚI
Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện cả những ưu điểm và hạn chế trong trong công tác phát triển đảng viên ở Việt Nam thời gian qua, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII đã đưa ra những quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới.
Về quan điểm, Đảng ta chỉ rõ: “Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng”(9). Đội ngũ đảng viên chính là chủ thể tạo nên các cơ sở, tổ chức đảng nên sức mạnh của mỗi tổ chức đảng phụ thuộc trước hết vào đội ngũ đảng viên. Do đó, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cụ thể về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đó là một mặt, các tổ chức đảng cần tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu; song mặt khác, mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng. Đây là mối quan hệ hai chiều giữa tổ chức đảng và đảng viên, đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII
(Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Với mục tiêu: Nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Một là, đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên.
Trước những hạn chế về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, việc đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là rất cần thiết, giúp cho mỗi đảng viên hiểu rõ hơn về trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Để gắn trách nhiệm của đảng viên trước những nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước, khắc phục triệt để tình trạng bang quan, thờ ơ về chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng, Đảng ta chỉ rõ cần phải: “Chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch”(10).
Đặc biệt, trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Đảng ta cũng chỉ rõ cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Mỗi đảng viên cũng cần nêu cao ý thức “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Điều này sẽ giúp cho mỗi đảng viên tránh xa được những cám dỗ vật chất, danh vọng, quyền lực để giữ gìn đạo đức trong sạch, liêm chính.
Hai là, tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách.
Một trong những điểm mới của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII là Đảng đã nhấn mạnh đến công tác quản lý đảng viên vì thực tiễn thời gian qua cho thấy, do sự buông lỏng quản lý của các tổ chức đảng mà không ít đảng viên có biểu hiện coi thường kỷ luật đảng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, vi phạm pháp luật, thậm chí bị truy tố, khai trừ ra khỏi Đảng. Do đó, việc tăng cường quản lý đảng viên, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của mỗi cơ sở đảng là rất cần thiết. Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên; phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực; kịp thời nhắc nhở, giáo dục, giúp đỡ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc khi có khuyết điểm, vi phạm”(11).
Một điểm nhấn cũng đáng lưu ý là trong Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Đảng ta nhấn mạnh đến việc tăng cường kỷ luật Đảng, kiên quyết xử lý kỷ luật những đảng viên vi phạm như: “kiên quyết đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng; kịp thời chấn chỉnh đối với đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ, đảng viên không thực hiện đúng quy định về chuyển sinh hoạt đảng; đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước; đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp”(12). Điều này thể hiện tinh thần nhất quán trong chỉ đạo của Đảng về tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Ba là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên.
Nâng cao công tác kết nạp đảng viên cũng là một điểm nhấn quan trọng được đưa ra tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nước ngoài còn thấp, thậm chí có một số nơi còn tình trạng “trắng” đảng viên. Với phương châm: Ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên, Hội nghị chỉ rõ: “Tiếp tục tăng số lượng, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát triển đảng viên; đẩy mạnh bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên trong công nhân, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước, nông dân, trí thức, thanh niên, sinh viên, người có tôn giáo, ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số theo nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài”(13).
Một trong những nội dung được Hội nghị đưa ra trong việc nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên là đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Đây là giải pháp rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm lạc hậu, bất hợp lý trong chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới; đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người cán bộ khi đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Có thể nhận thấy, Nghị quyết số 21-NQ/TW “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” có ý nghĩa rất quan trọng trong tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay. Nghị quyết không chỉ đặt ra yêu cầu cho mỗi tổ chức cơ sở đảng trong việc giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đảng viên mà còn giúp cho mỗi đảng viên nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc “tự soi”, “tự sửa”, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để luôn xứng đáng là “người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Nguồn: https://tuyengiao.vn
--------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011, tập 3, tr.219
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011, tập 5, tr.252
(3) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011, tr.7
(4) Báo cáo tình hình phát triển đảng viên năm 2021, Vụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương
(5) Báo cáo tình hình phát triển đảng viên năm 2021, Vụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.155-156
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.157-158
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.23
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.160
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.173
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.174
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.175
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.176.