Nhằm ngăn chặn tình trạng đa dạng sinh học ở nước ta đang bị suy giảm, ngày 28/1/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QÐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo chiến lược này, đến năm 2030, mở rộng và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên bảo đảm đạt được các chỉ tiêu cơ bản như: Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên đất liền đạt 9% diện tích lãnh thổ đất liền; diện tích các vùng biển, ven biển được bảo tồn đạt từ 3% đến 5% diện tích vùng biển tự nhiên của quốc gia; 70% khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên được đánh giá hiệu quả quản lý; tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc duy trì ổn định từ 42% đến 43%...
Việt Nam xác định có hơn 61 nghìn loài sinh vật; gần 89 nghìn nguồn gene/mẫu giống của các nhóm khác nhau đã được thu thập và lưu giữ; tỷ lệ che phủ rừng có xu hướng tăng trong những năm gần đây.
Ðể thực hiện được các mục tiêu chiến lược đề ra, với vai trò là cơ quan chủ trì, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản chính sách, quy định pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Trong đó, tập trung xây dựng và ban hành chương trình bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; xây dựng các đề án phục hồi hệ sinh thái đất ngập nước đang bị suy thoái, cũng như huy động nguồn lực, xây dựng năng lực quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học…; đẩy mạnh nghiên cứu, thí điểm mô hình gây nuôi bảo tồn và tái thả vào tự nhiên một số loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; thực hiện các mô hình, giải pháp bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trong hoạt động du lịch sinh thái, du lịch dựa vào thiên nhiên tại các khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan sinh thái quan trọng và các di sản thiên nhiên khác; triển khai các mô hình về tiếp cận các nguồn gene và chia sẻ lợi ích, bao gồm bảo vệ tri thức truyền thống liên quan đến nguồn gene, cũng như phổ biến, nhân rộng các giải pháp hiệu quả, mô hình tiên tiến về bảo tồn, phục hồi, sử dụng bền vững đa dạng sinh học…
Các bộ, ngành liên quan cùng các địa phương phối hợp chặt chẽ trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ loài hoang dã, xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với thiên nhiên; lồng ghép nội dung bảo tồn đa dạng sinh học vào nội dung bảo vệ môi trường trong chương trình giáo dục các cấp, nhất là nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã hội về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học của các tổ chức, cá nhân; triển khai nghiên cứu cơ chế và khuyến khích các tổ chức, cá nhân cùng cơ quan quản lý ký kết và thực hiện các tiêu chuẩn, cam kết tự nguyện về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học...
Nhà nước cũng như các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần có cơ chế khuyến khích, huy động sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp đầu tư tài chính cho bảo tồn đa dạng sinh học; thực hiện các mô hình hợp tác công-tư trong bảo tồn và sử dụng bền vững hệ sinh thái và đa dạng sinh học; đồng thời nghiên cứu, ban hành các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển sinh kế của cộng đồng dân cư sống trong khu vực vùng đệm; cơ chế tài chính mới, đột phá để huy động nguồn lực cho bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký và thông lệ quốc tế...
Ðó là những hành động thiết thực để bảo tồn đa dạng sinh học trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài, góp phần quan trọng bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam...