KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 - 19/8/2025) VÀ QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (2/9/1945 - 2/9/2025)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 04/07/2018 - Lượt xem: 774
Công tác gia đình trên địa bàn xã, phường, thị trấn

I- Quan điểm của Đảng về gia đình và công tác gia đình trong thời kỳ đổi mới 1. Quan điểm của Đảng về gia đình Gia đình và công tác gia đình luôn là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về gia đình ban hành trong những năm qua đã nhấn mạnh đến vai trò của gia đình như là tế bào của xã hội và là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Đặc biệt, từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, qua mỗi kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, văn kiện đại hội đều thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng về gia đình. Trong phạm vi của chuyên đề này, công chức làm công tác văn hóa - xã hội cấp xã cần nắm vững những quan điểm sau:

Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp về gia đình và công tác xây dựng gia đình trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta khẳng định:

Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Mục tiêu chủ yếu của công tác gia đình
Mục tiêu chủ yếu của công tác gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là ổn định, củng cố và xây dựng gia đình theo tiêu chí ít con (mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội.
3. Nhiệm vụ của công tác gia đình
Một là, cần nhận thức rõ gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi đầu tư cho phát triển bền vững. Gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội; Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình. Xây dựng gia đình phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. cán bộ, đảng viên có trách nhiệm gương mẫu chăm lo xây dựng chính gia đình mình và vận động nhân dân cùng thực hiện.
Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên; chủ động rà soát, đánh giá tình hình gia đình tại địa phương, xây dựng và triển khai các kế hoạch, đề án cụ thể giải quyết những khó khăn, thách thức về gia đình và công tác gia đình, cần đặc biệt quan tâm xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; kiên quyết đấu tranh chống những lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi trụy; tăng cường công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; có kế hoạch và biện pháp cụ thể phòng, chống tệ nạn xã hội và bạo hành trong gia đình.
Ba là, tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia đình các kiến thức, kỹ năng sống, như: kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa các thành viên với nhau và với cộng đồng. Giáo dục và vận động mọi gia đình tự nguyện, tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh, vận động các gia đình tích cực tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước quy chế dân chủ ở cơ sở; phát triển các hình thức tổ hòa giải, các câu lạc bộ gia đình tại cộng đồng; giữ gìn và phát huy văn hóa gia đình và truyền thống tốt đẹp của dòng họ; xây dựng tình làng nghĩa xóm, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong giáo dục, phải kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình; nhân rộng các mô hình kinh tế hộ tiên tiến; đảm bảo kết quả bền vững của chương trình xóa đói, giảm nghèo và tạo việc làm nhất là ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, quan tâm đặc biệt tới các gia đình có công với cách mạng, gia đình là nạn nhân của chiến tranh.
Năm là, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, cộng đồng và gia đình tham gia tích cực xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu phố văn hóa, cụm dân cư văn hóa; xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình điển hình, tiêu biểu, tạo ra phong trào xây dựng gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, biểu dương kịp thời và nhân rộng các mô hình gia đình gia đình vượt khó vươn lên, gia đình làm kinh tế giỏi, gia đình hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực, chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Sáu là, cần sớm xây dựng và triển khai chiến lược và chương trình mục tiêu về công tác gia đình, xây dựng các đề án cụ thể giải quyết những thách thức hiện nay đối với gia đình.
II- CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
1. Hiến pháp năm 2013
Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ:
1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
Và “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân” (khoản 3, Điều 60).
Có thể nói, việc quy định những quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 2013 chính là nền tảng pháp lý cơ bản nhất cho việc ban hành chính sách xây dựng gia đình Việt Nam.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật khác
Bên cạnh đó, Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản luật, pháp lệnh trên tinh thần khẳng định: Gia đình là chiếc nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và khẳng định mục đích của pháp luật về hôn nhân gia đình là đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, phát huy truyền thống và những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
- Điều 38, Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình”.
- Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới. Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ  trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Pháp lệnh dân số năm 2003 quy định rõ trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992: Công dân có nghĩa vụ “thực hiện kế hoạch hóa gia đình; xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. Đồng thời, công dân cũng có nghĩa vụ “thực hiện các biện pháp phù hợp để nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần của bản thân và các thành viên trong gia đình”.
Luật người cao tuổi năm 2009 nêu rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân đối với người cao tuổi là: Cơ quan tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao trách nhiệm chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; tham gia giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về người cao tuổi. Gia đình người cao tuổi có trách nhiệm chủ yếu trong việc phụng dưỡng người cao tuổi. Cá nhân có trách nhiệm kính trọng và giúp đỡ người cao tuổi.
Luật người khuyết tật năm 2010 cũng khẳng định: Người khuyết tật có quyền được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; Nhà nước ưu tiên bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi. Luật còn quy định: Người khuyết tật được tham gia các hoạt động xã hội; được sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Luật cũng quy định: Người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật. Nhà nước có chính sách về người khuyết tật, cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình có trách nhiệm đối với người khuyết tật.
Nhìn chung, trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, nhiều chính sách về gia đình đã được ban hành để điều chỉnh các quan hệ gia đình trong xã hội theo tiêu chí xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững. Các quy định đó là cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành triển khai các hoạt động thực hiện công tác gia đình trên phạm vi toàn quốc.
III- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIA ĐÌNH
1. Khái niệm quản lý nhà nước về gia đình
Gia đình là đối tượng quản lý của Nhà nước. Nhà nước quản lý gia đình gắn liền với quản lý công dân tại nơi cư trú. Đây là cách quản lý chặt chẽ nhất từ khi Nhà nước ra đời. Gắn kết gia đình và nơi cư trú có các quy định của Nhà nước về nhiều mặt như: quản lý hộ tịch, hộ khẩu thường trú, tạm trú, tạm vắng, đăng ký khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký kinh doanh, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,...
Quản lý nhà nước về gia đình là quản lý những vấn đề cơ bản thuộc nội dung và quan hệ gia đình nhằm định hướng, điều tiết sự phát triển gia đình theo một mục tiêu nhất định, nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với cộng đồng xã hội và quốc gia; đây là quá trình tiến hành các hoạt động pháp lý, các hoạt động cung cấp biện pháp và dịch vụ của Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu và nội dung trên.
2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về gia đình
a) Chủ thể quản lý nhà nước về gia đình là Nhà nước
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình ở cấp Trung ương là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình ở địa phương là ủy ban nhân dân các cấp:
+ ở cấp tỉnh có Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về gia đình trên địa bàn tỉnh.
+ ở cấp huyện có Phòng Văn hóa - Thông tin cấp huyện, là cơ quan tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về gia đình trên địa bàn huyện.
+ ở cấp xã có Ban Văn hóa - Thông tin mà trực tiếp là công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã có trách nhiệm tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ quản lý về gia đình trên địa bàn xã.
b) Đối tượng của quản lý nhà nước về gia đình
Đối tượng của quản lý nhà nước về gia đình là hộ gia đình và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực gia đình hoặc có liên quan đến lĩnh vực gia đình.
c) Phương thức quản lý nhà nước về gia đình
Phương thức quản lý nhà nước về gia đình là sự phối kết hợp thực hiện các nhiệm vụ của hệ thống tổ chức bộ máy của ngành văn hóa, thể thao và du lịch cơ chế quản lý thống nhất với nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao về công tác gia đình.
Như vậy, còng tác quản lý nhà nước về gia đình phải được đặt trong cơ chế phối hợp giữa cơ quan chủ trì với các cơ quan có liên quan ở mỗi cấp. Cơ quan Văn hóa, Thể thao và Du lịch ở mỗi cấp giữ vai trò chủ trì và điều phối các cơ quan có liên quan. Ví dụ: Để thu thập thông tin, số liệu cơ bản về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở xã định kỳ theo quý, sáu tháng và một năm, công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã phải căn cứ vào hướng dẫn của Phòng Văn hóa - Thông tin cấp huyện để xây dựng kế hoạch, dự trừ kinh phí, dự thảo phân công các trưởng thôn, phối hợp với Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Công an, Tư pháp cấp xã,...
3. Nhiệm vụ công tác quản lý nhà nước về gia đình
- Tham mưu cho Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp về nội dung các nghị quyết, kế hoạch, chương trình công tác hằng năm về phòng, chống bạo lực gia đình; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; phân công cán bộ, đảng viên phụ trách các địa bàn dân cư, các gia đình chính sách, gia đình khó khăn. Tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm xây dựng gia đình văn hóa.
- Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật về gia đình.
- Tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức, kỹ năng về gia đình, giáo dục đời sống gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình; các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật đối với gia đình.
- Phối hợp và tổ chức các đợt tuyên truyền, giáo dục pháp luật về gia đình lồng ghép vào các hoạt động.
- Tổ chức giáo dục đời sống gia đình: Xây dựng, tổ chức và quản lý các mô hình can thiệp bạo lực gia đình; triển khai nội dung giáo dục gia đình thông qua mô hình Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, các loại hình câu lạc bộ của các tổ chức chính trị - xã hội như: Phụ nữ, Nông dân, Thanh niên, tổ tư vấn...
- Công tác xây dựng “Gia đình văn hóa”: Tổ chức vận động các gia đình đăng ký, phấn đấu đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”; chủ trì tham mưu xét chọn các gia đình đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa”, gia đình văn hóa tiêu biểu, làng văn hóa, khu phố văn hóa…
- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh tổ chức thiết thực các hoạt động nhân Ngày gia đình Việt Nam 28-6 hằng năm, biểu dương các gia đình tiêu biểu trong xã.
- Kiểm tra đánh giá, phân loại các kết quả hoạt động, phong trào.
Nguồn: Kỹ năng nghiệp vụ công tác văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn, TS. Vũ Đăng Minh - Ths. Nguyễn Thế Vịnh, NXB CTQG - ST, Hà Nội -2016
(Phòng VHVN sưu tầm)
Tin liên quan