KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (10/10/1954 – 10/10/2024)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 10/04/2023 - Lượt xem: 234
Giới thiệu một số điểm mới của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022

Thực hiện Chương trình phối hợp công tác số 11-CTr/BTGTU ngày 06/3/2023 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy về việc phối hợp giữa Ban Tuyên giáo với các cơ quan nhà nước cùng cấp phổ biến tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước… Trang thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đăng tải nội dung “Giới thiệu một số điểm mới của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022” của Sở Tư Pháp.

Ngày 14/11/2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua  Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (Luật số 13/2022/QH15). Luật đã được Chủ tịch nước đã ký lệnh số 11/2022/L-CTN ngày 25/11/2022 về việc công bố Luật và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2023.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 (Luật năm 2007). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn nạn bạo lực gia đình, hướng tới xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, hạnh phúc thể hiện sự nghiêm túc, chủ động của Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước và cam kết quốc tế đã tham gia. Sau gần 15 năm thực hiện, Luật đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần bảo vệ người bị bạo lực gia đình, xử lý các hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình, nâng cao bình đẳng giới trong gia đình. Các cấp ủy Đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình. Nhiều địa phương tổ chức triển khai các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình sáng tạo, năng động, phát huy hiệu quả tốt huy động nguồn lực xã hội tham gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam. Nhiều vụ việc xuất hiện những hành vi bạo lực gia đình có mức độ gây hại nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi, khó lường và khó xử lý bằng các quy định pháp luật hiện hành. Dữ liệu thống kê, nghiên cứu về bạo lực gia đình do các cơ quan, tổ chức thực hiện cho thấy những bức tranh hết sức phức tạp, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp từ báo cáo của các tỉnh thành, trong giai đoạn 2009-2021, tổng số vụ bạo lực gia đình các địa phương đã phát hiện trên cả nước là 324.641 vụ. Trong giai đoạn này, số vụ bạo lực gia đình giảm dần qua các năm: năm 2009 là 53.206 vụ, giảm xuống còn 19.274 vụ trong năm 2015 và 4.967 vụ trong năm 2021. Trong khi đó, Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công bố năm 2020 cho thấy, năm 2019, có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra), cứ 03 phụ nữ thì có gần 01 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác/hoặc bạo lực tình dục. Đáng chú ý có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục không tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an. Kết quả điều tra này cho thấy năm 2019, bạo lực gia đình với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP (tăng 0,2% so với năm 2012). So với số liệu của cuộc Điều tra được thực hiện năm 2009 thì số vụ bạo lực gia đình ở Việt Nam còn tăng lên.
Nghiên cứu về bạo lực gia đình do Viện Nghiên cứu gia đình và Giới thực hiện năm 2019 chỉ ra rằng 69% trẻ em cho biết đã từng bị bố mẹ xử phạt bằng bất kỳ hình thức nào như đánh, đấm, đạp, tát… và 31,6% cha mẹ thừa nhận họ đã xử phạt con bằng hình thức bạo lực. Đáng chú ý, trẻ em cũng là nhóm xã hội có nguy cơ cao bị xâm hại tình dục trong gia đình, theo đó trong số trẻ bị xâm hại tình dục có tới 21,3% bị chính người thân trong gia đình xâm hại. Cũng theo nghiên cứu này, bạo lực gia đình với người cao tuổi diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương. Các hành vi bạo lực với người cao tuổi như “bỏ mặc không quan tâm về tình cảm” chiếm 10,2%, “không quan tâm, chăm sóc ăn uống, thuốc men” chiếm 8,5% bên cạnh các hành vi khác như bị ép buộc lao động, bị tranh giành tài sản thừa kế, bị đập phá tài sản, tịch thu tiền, bị coi thường, sỉ nhục, quát mắng, dọa nạt…
Bạo lực gia đình cũng được xem là một trong những tác nhân chính làm tan vỡ hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/7/2018, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, giải quyết 1.384.660 vụ, đạt tỷ lệ 97,4%, còn lại 37.407 vụ đang trong quá trình giải quyết. Trong số 1.384.660 vụ án ly hôn Tòa án đã giải quyết, có 1.060.767 vụ xuất phát từ nguyên nhân bạo lực gia đình như: bị đánh đập, ngược đãi; vợ hoặc chồng nghiện ma túy, rượu chè, cờ bạc; ngoại tình (chiếm 76,6% các vụ án ly hôn). Báo cáo của ngành Tư pháp cho thấy chỉ riêng năm 2014 tiếp nhận hòa giải 31.528 vụ việc bạo lực gia đình, năm 2015 là 33.966 vụ. Vấn nạn bạo lực gia đình có xu hướng trầm trọng hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn đã và đang để lại những hậu quả thương tâm, đau xót cho nhiều gia đình, tạo ra những thiệt hại to lớn cho toàn xã hội. Nếu không được giải quyết kịp thời, sẽ đe doạ đến sự phát triển bền vững của gia đình, làm xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm suy yếu động lực phát triển bền vững của đất nước.
 Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng nêu trên là do các quy định, chính sách trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành còn tồn tại nhiều bất cập, quá trình thi hành Luật xuất hiện nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm và công tác phối hợp liên ngành. Một phần xuất phát từ công tác tổ chức, triển khai thực hiện của các địa phương hoặc Luật hiện hành còn thiếu các nội dung, chính sách, quy định phù hợp. Bên cạnh đó, nhiều chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước được ban hành trong thời gian qua cũng cần phải được cụ thể hóa trong Luật. Từ những lý do nêu trên cho thấy Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 cần được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể:
1. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
Nghị quyết Đại hội Đảng XII có nêu: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng, làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa XIII đề ra các quan điểm, chủ trương, giải pháp cụ thể cho việc thực hiện các biện pháp phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững và thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình toàn diện, khả thi, có hiệu quả. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tiếp tục xác định gia đình là yếu tố quyết định trong tiến trình xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất để hình thành, nuôi dưỡng nhân cách, giáo dục đạo đức, lối sống văn minh và trao truyền các giá trị văn hóa tốt đẹp. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới đã chỉ ra một trong những thách thức hiện nay là “chưa xử lý triệt để tình trạng bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ, xâm hại tình dục, sử dụng lao động trẻ em;… ”.
Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định quan trọng về xây dựng và phát triển gia đình như: “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân”. Cụ thể hóa Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành các luật để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân như: Bộ luật Hình sự (2015), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự (2015), Bộ luật Lao động (2019); Luật Hôn nhân và Gia đình (2014); Luật Trẻ em (2016); Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia (2019); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (2020); Luật Phòng, chống ma túy (2021) và một số luật khác có liên quan.
2. Giải quyết những bất cập trong thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
a) Về công tác phòng ngừa, ngăn chặn, hỗ trợ, bảo vệ trong phòng, chống bạo lực gia đình
- Những bất cập của thuật ngữ, khái niệm: Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, một số khái niệm chưa được làm rõ, dẫn đến những cách hiểu khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện. Ví dụ: quy định “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Định nghĩa này chưa đề cập rõ vấn đề bạo lực tình dục. Hành vi bạo lực tình dục đã diễn ra ở nhiều khu vực, xuất hiện trong các tầng lớp xã hội tại Việt Nam trong nhiều năm qua. Luật về phòng, chống bạo lực gia đình của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay đều xác định bạo lực tình dục là một trong các dạng thức của bạo lực gia đình. Xã hội Việt Nam hiện nay đã xuất hiện một số dạng thức bạo lực gia đình mới mà Luật năm 2007 chưa xác định, đề cập khiến nhận thức về bạo lực gia đình ở các cấp, các ngành và người dân khác nhau. Từ đó dẫn đến những bất cập trong việc triển khai các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình và thu thập thông tin về bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó, Luật năm 2007 không có điều khoản riêng quy định về giải thích từ ngữ, do đó còn thiếu một số khái niệm quan trọng, một số khái niệm chưa được giải thích rõ như: cấm tiếp xúc, nơi tạm lánh, giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình. Trong khi đó đa số các Luật của Việt Nam hiện nay đều có điều khoản riêng quy định về giải thích từ ngữ trong luật.
- Những bất cập của các quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình: Luật năm 2007 xác định rõ nguyên tắc lấy phòng để chống nhưng biện pháp phòng ngừa trong Luật hiện hành chưa chủ động, không bảo đảm tính liên tục. Việc phòng, chống bạo lực gia đình cần thực hiện trước khi xảy ra, khi đang xảy ra và khi kết thúc. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hiệu quả không chỉ dừng hành vi bạo lực tức thời mà còn ngăn việc hành vi bạo lực gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Với vụ việc bạo lực gia đình đã kết thúc, ngoài xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật cần có những biện pháp hỗ trợ để giúp người có hành vi bạo lực gia đình chuyển đổi hành vi bạo lực, nói cách khác là phòng ngừa vòng xoáy bạo lực gia đình tái diễn. Nhưng những quy định về phòng ngừa trong Luật năm 2007 chưa thể hiện được điều này.
Bạo lực gia đình có nguyên nhân sâu xa từ bất bình đẳng giới trong gia đình. Các yếu tố lạm dụng rượu, bia và xử lý hành vi vi phạm không nghiêm minh là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các vụ bạo lực gia đình ngày càng gia tăng về số lượng, mức độ nghiêm trọng hơn và nhiều vụ việc không được xử lý thích đáng, hoặc bị lãng quên, bỏ mặc đằng sau cánh cửa gia đình. Việc hỗ trợ, giúp đỡ người có hành vi bạo lực gia đình sau khi bị xử lý theo quy định của pháp luật để họ không tái diễn cũng là một biện pháp phòng ngừa bền vững song chưa được quy định trong Luật hiện hành.
- Những bất cập của các quy định về hoà giải: Hòa giải là biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình và phòng ngừa tái diễn bạo lực gia đình, không thay thế các biện pháp xử lý vụ việc bạo lực gia đình. Trong 15 năm thực hiện Luật năm 2007 cho thấy công tác hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình chưa phát huy được hiệu quả. Khi nào thì phải xử lý một tình huống bằng hòa giải và khi nào thì cần các biện pháp khác chưa được quy định rõ trong Luật năm 2007. Trong thực tiễn, việc hòa giải đôi khi còn dẫn đến tình trạng “bạo lực kép” do người thực hiện hòa giải thiếu những kiến thức, kỹ năng về phòng, chống bạo lực gia đình, về giới và về quyền con người. Việc hòa giải được coi như biện pháp xử lý vụ việc bạo lực gia đình đã dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình kéo dài năm này qua năm khác.
- Những bất cập của các quy định về bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình: Các thủ tục hành chính và điều kiện để xử lý vụ việc bạo lực gia đình trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 còn khá phức tạp. Nhiều nạn nhân bạo lực gia đình ngại tiếp xúc với chính quyền vì không biết phải trình bày thế nào và bị người gây bạo lực đe dọa nếu viết đơn hoặc tố cáo. Luật năm 2007 quy định khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc thì phải có đơn đề nghị. Việc quy định viết đơn trong áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là thủ tục hành chính không cần thiết gây khó khăn cho chính người bị bạo lực cũng như các cơ quan chức năng.
Luật cũng thiếu các quy định cụ thể về việc cứu người trong trường hợp cấp thiết, đặc biệt với các nạn nhân là trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ cũng như các nhóm dễ bị tổn thương, yếu thế khác. Luật năm 2007 quy định các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra. Tuy nhiên, các biện pháp này thiếu khả thi trong thực tiễn, cần có quy định cụ thể về việc yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình. Nội dung này vừa giúp ngăn chặn vụ việc bạo lực gia đình, bảo vệ người bị bạo lực gia đình, vừa có tính răn đe, giáo dục người gây bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức, thái độ của cộng đồng.
Việc phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình quy định tại Điều 18 Luật năm 2007 cũng chưa làm rõ nội dung về trách nhiệm xác minh, xử lý tin báo về vụ việc bạo lực gia đình. Thực tiễn cho thấy đây là một bước rất quan trọng, ảnh hưởng tới tính kịp thời và hiệu quả của việc ngăn chặn, xử lý vụ việc bạo lực gia đình, chưa có các quy định cụ thể để bảo vệ và hỗ trợ các nhóm tham gia công tác phòng, chống bạo lực gia đình (đặc biệt là người trực tiếp ngăn chặn, xử lý vụ việc bạo lực gia đình).
- Những bất cập của các quy định về xử lý hành vi bạo lực gia đình và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình:  Chương V của Luật năm 2007 quy định về xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực và khiếu nại, tố cáo. Chương này thiếu những quy định để xử lý trường hợp hành vi bạo lực gia đình chưa đến mức bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Biện pháp phạt tiền trong xử phạt hành chính đối với người có hành vi bạo lực gia đình chưa phát huy hiệu quả. Nhiều trường hợp, người bị bạo lực gia đình là người đứng ra nộp phạt và số tiền nộp phạt lấy từ tài sản chung của gia đình. Điều này khiến cho người bị bạo lực gia đình không muốn tố cáo hành vi bạo lực gia đình trong lần tiếp theo và cũng không giúp cho việc răn đe, giáo dục đối với người gây bạo lực. Vì vậy, ngoài phạt tiền thì cần có các biện pháp mang tính bền vững hơn như giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình người có hành vi bạo lực gia đình, giúp người có hành vi bạo lực gia đình tham gia dịch vụ giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình do cơ sở phòng, chống bạo lực gia đình cung cấp. Luật năm 2007 chưa quy định rõ về thẩm quyền và trách nhiệm của công an cấp xã trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, xác minh và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
b) Về công tác phối hợp liên ngành và điều kiện đảm bảo để thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình
- Công tác phòng, chống bạo lực gia đình có liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức. Luật năm 2007 cũng dành 12 Điều để quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, sự liên kết giữa các cơ quan, tổ chức chưa được đề cập dẫn đến công tác phòng, chống bạo lực gia đình còn thiếu đồng bộ.
Hiện nay, tại cấp tỉnh, huyện, xã có ban chỉ đạo công tác gia đình, trong đó có thực hiện việc phòng, chống bạo lực gia đình nhưng ở trung ương lại chưa có ban chỉ đạo, khiến các địa phương thiếu sự hướng dẫn, chỉ đạo theo ngành dọc từ trung ương. Luật năm 2007 cũng chưa quy định rõ vai trò điều phối về phòng, chống bạo lực gia đình của cơ quan quản lý nhà nước.
- Điều kiện bảo đảm là vấn đề then chốt quyết định đến việc triển khai và thi hành pháp luật. Điều 6 của Luật năm 2007 quy định khá chung chung về kinh phí dành cho các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình hiện nay được bố trí lồng ghép, nhiều địa phương không có mục chi về phòng, chống bạo lực gia đình. Do đó, nhiều nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình không thực hiện được. Hiện nay, kinh phí chi cho công tác gia đình trong đó có nội dung phòng, chống bạo lực gia đình chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng kinh phí chi cho ngành văn hóa, thể thao và du lịch; Luật chưa quy định cụ thể về trách nhiệm cũng như biện pháp xử lý đối với người đứng đầu trong phòng, chống bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy lực lượng tham gia phòng, chống bạo lực gia đình cần phải thiết lập ở cộng đồng dân cư để nâng cao tính chủ động, phòng ngừa.
3. Bảo đảm phù hợp với các Điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và bài học kinh nghiệm quốc tế
Việt Nam đã tham gia các cam kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực, trong đó có quyền con người, vấn đề bạo lực gia đình. Đáng chú ý là Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và các khuyến nghị của Ủy ban các Công ước Nhân quyền. Công ước CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19/3/1982. Ngay sau khi tham gia các cam kết quốc tế liên quan đến bạo lực gia đình, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng để cụ thể hóa về mặt pháp lý như ban hành Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Ở khu vực ASEAN, Việt Nam là quốc gia chủ động đưa ra nhiều sáng kiến và tham gia các tuyên bố chung liên quan đến bình đẳng giới, xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình. Tương tự như nhiều quốc gia khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam dựa trên tiếp cận đa ngành và toàn diện nhằm giải quyết bạo lực gia đình. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới khi giải quyết vấn đề bạo lực gia đình như:
Tại New Zealand việc áp dụng biện pháp mạnh để ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình cũng được trao cho cảnh sát quyền được ban hành lệnh an toàn nếu thấy cần thiết để bảo vệ người bị bạo lực gia đình. Trong trường hợp vì sự an toàn cho người bị bạo lực gia đình, cảnh sát có thể ban hành lệnh an toàn mà không cần sự đồng ý của người bị bạo lực gia đình. Mặt khác, cảnh sát New Zealand có thể tạm giữ người có hành vi bạo lực gia đình không quá 2 giờ để phục vụ xác minh, điều tra sự việc nếu người có hành vi bạo lực không tuân thủ thì có thể bị cảnh sát bắt mà không cần đến quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Tại Hàn Quốc, sau khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về hành vi bạo lực, cán bộ điều tra sẽ lập tức đến hiện trường vụ việc bạo lực gia đình. Trong quá trình điều tra, xác minh vụ việc cán bộ điều tra có trách nhiệm thực hiện các biện pháp cần thiết, bao gồm tách người bị bạo lực gia đình, người cung cấp tin báo, tố giác, nhân chứng,... khỏi đối tượng có hành vi bạo lực vì mục đích điều tra để họ có thể thoải mái cung cấp lời khai. Luật của Hàn Quốc cũng quy định không ai được phép từ chối hợp tác với cán bộ điều tra được phái cử đến hiện trường vụ bạo lực gia đình hoặc can thiệp vào các hoạt động của cán bộ điều tra này mà không có lý do chính đáng.
Tại Anh, cảnh sát cấp cao đưa ra thông báo cảnh cáo người có hành vi bạo lực gia đình để làm cơ sở cho xử lý nếu tái phạm hành vi bạo lực. Theo đó, người có hành vi bạo lực gia đình sau khi đã nhận được thông báo của cảnh sát nếu tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình thì sẽ bị bắt giữ mà không cần có lệnh bắt.
Tại Malaysia, nhân viên phúc lợi xã hội ban hành lệnh bảo vệ khẩn cấp sẽ gửi một bản sao của lệnh cho sĩ quan cảnh sát quận, huyện nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú hoặc bất kỳ cảnh sát nào khác dưới quyền chỉ huy của người đó. Cảnh sát có trách nhiệm thi hành ngay quyết định này.
Tại Thụy Điển, Chính phủ coi bạo lực gia đình là trở ngại cấp bách nhất đối với bình đẳng giới, việc đẩy mạnh công tác phòng, chống bạo lực gia đình được coi là một trong những giải pháp thực hiện bình đẳng giới.
Tại Thụy Điển đã phát triển mạng lưới hỗ trợ người bị bạo lực gia đình thông qua địa chỉ tin cậy ở cộng đồng, thực hiện giáo dục người có hành vi bạo lực gia đình hay sử dụng hình ảnh của người nổi tiếng, hoạt động thể thao để tuyên truyền vận động cho phòng, chống bạo lực gia đình.
Từ các nội dung nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 là rất cần thiết nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý, đồng thời tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG LUẬT
1. Quan điểm xây dựng Luật
Một là, tiếp tục thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng về gia đình, trực tiếp là Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa XIII đề ra các quan điểm, chủ trương, giải pháp cụ thể cho việc thực hiện các biện pháp phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững và thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình toàn diện, khả thi, có hiệu quả.
Hai là, bảo đảm phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng gia đình Việt Nam và phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới; cụ thể hóa đầy đủ, chính xác nội dung của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, xây dựng và phát triển gia đình, bảo vệ các đối tượng yếu thế ngay trong mỗi gia đình; bảo đảm thiết lập các nguyên tắc và biện pháp phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Ba là, tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, khả thi, phù hợp giữa các cam kết quốc tế và tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Bốn là, kế thừa đầy đủ các chế định cơ bản của Luật năm 2007 còn phù hợp, có điều chỉnh, sửa đổi để khắc phục những vướng mắc, bất cập và bổ sung những vấn đề mới phát sinh.
2. Mục tiêu xây dựng Luật
Việc sửa đổi Luật năm 2007 nhằm hoàn thiện thể chế về công tác phòng, chống bạo lực gia đình theo hướng tăng cường các biện pháp bảo vệ các quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 (Luật năm 2022) gồm 6 Chương, 56 Điều (tăng 10 Điều so với Luật năm 2007), quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình; bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở kế thừa các điều luật của Luật năm 2007, Luật năm 2022 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung nhiều nội dung mới. Cụ thể:
1. Chương I. Những quy định chung
a) Chương I gồm 12 Điều (từ Điều 1 đến Điều 12) quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; hành vi bạo lực gia đình; nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình; hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; quyền và trách nhiệm của người bị bạo lực gia đình; trách nhiệm của người có hành vi bạo lực gia đình; trách nhiệm của thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình; quyền và trách nhiệm của cá nhân phòng, chống bạo lực gia đình.
b) So với Luật năm 2007, Chương này sửa đổi, bổ sung những nội dung cơ bản sau:
- Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1): Bên cạnh việc kế thừa phạm vi điều chỉnh của Luật năm 2007, Luật năm 2022 bổ sung thêm điều chỉnh việc  ngăn chặn bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình. Việc sửa đổi nội dung của điều này để phù hợp với bố cục, nội dung được quy định trong Luật này.
- Về giải thích từ ngữ (Điều 2): Luật năm 2022 ngoài việc kế thừa khái niệm về bạo lực gia đình, bổ sung giải thích thêm 03 cụm từ:
+ “Cấm tiếp xúc là biện pháp cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần người bị bạo lực gia đình hoặc sử dụng phương tiện, công cụ để thực hiện hành vi bạo lực gia đình.”
+ “Nơi tạm lánh là địa điểm để bảo đảm an toàn cho người bị bạo lực gia đình.”
+ “Giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình là quá trình cung cấp kiến thức, kỹ năng ứng xử, kiềm chế cảm xúc tiêu cực, kiểm soát hành vi, giải quyết mâu thuẫn giúp người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt bạo lực gia đình.”
Luật năm 2007 không có Điều, khoản giải thích từ ngữ mà chỉ nêu định nghĩa về bạo lực gia đình tại khoản 2 Điều 1 về phạm vi điều chỉnh. Riêng định nghĩa bạo lực gia đình thì Luật năm 2022 đã bổ sung thêm hậu quả “có khả năng gây tổn hại về tình dục” là biểu hiện của hành vi bạo lực gia đình, cụ thể: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 1 Luật năm 2007 chỉ định nghĩa: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.”
- Về hành vi bạo lực gia đình (Điều 3): Luật năm 2007 quy định 9 nhóm hành vi bạo lực gia đình. Luật năm 2022 nâng các hành vi bị coi là bạo lực gia đình lên 16 hành vi và sửa đổi một số hành vi, cụ thể gồm:
+ Bổ sung mới:
(1) Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý
(2) Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em.
(3 Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình
(4) Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
(5) Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;
(6) Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;
(7) Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;
(8) Cưỡng ép thành viên gia đình học tập.
+ Sửa đổi: “Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng” Luật năm 2007 chỉ quy định “Cưỡng ép quan hệ tình dục”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật năm 2022 đã bổ sung thêm một số đối tượng cũng áp dụng các hành vi bị coi là bạo lực gia đình gồm: “Hành vi quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện giữa người đã ly hôn; người chung sống như vợ chồng; người là cha, mẹ, con riêng, anh, chị, em của người đã ly hôn, của người chung sống như vợ chồng; người đã từng có quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi với nhau cũng được xác định là hành vi bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.” Theo Luật năm 2007, quy định này chỉ áp dụng với “thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng”.
Như vậy, Luật năm 2022 đã mở rộng đối tượng bạo lực gia đình ngoài hôn nhân. Nhiều người nghĩ rằng, bạo lực gia đình chỉ áp dụng với các thành viên gia đình hiện tại của nhau hoặc giữa những người đang có quan hệ hôn nhân và gia đình mà không áp dụng với những người đã ly hôn, chung sống với nhau như vợ chồng, người đã từng là cha mẹ nuôi, con nuôi… Tuy nhiên, đây là mối quan hệ khá đặc thù, dễ có tiếp xúc trong cuộc sống, thậm chí còn là các mối quan hệ thường xuyên nảy sinh xung đột, bạo lực và thực tế cho thấy, hiện nay có rất nhiều vụ bạo lực liên quan đến các thành viên gia đình của người đã ly hôn, người sống chung với nhau như vợ chồng; thậm chí là giữa thành viên của người đã ly hôn hoặc sống chung với nhau như vợ chồng. Đó là nguyên do dẫn đến thay đổi trong quy định của Luật năm 2022.
- Về nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 4): Luật năm 2022 quy định 7 nguyên tắc tăng 03 nguyên tắc so với Luật năm 2007. Đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm phòng, chống bạo lực gia đình tại khoản 1 Điều 4: “Phòng ngừa là chính, lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm”.  Người bị bạo lực gia đình là đối tượng chịu nhiều hậu quả trực tiếp cả về thể chất và tâm lý, là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt khi họ là những người yếu thế trong xã hội như phụ nữ và trẻ em. Người bị bạo lực gia đình phải là trung tâm của các biện pháp phòng chống bạo lực. Đồng thời, không chỉ trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ là các đối tượng được ưu tiên bảo vệ mà luật còn bổ sung thêm một số đối tượng nữa: “Tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có liên quan; bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em; ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực gia đình là phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; thực hiện bình đẳng giới.”
Như vậy, theo quy định Luật năm 2022, cả trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi đều là đối tượng được ưu tiên bảo vệ quyền lợi khi gặp phải hành vi bạo lực gia đình, nhấn mạnh “bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em” và bổ sung, quy định rõ thêm các đối tượng ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích gồm phụ nữ mang thai, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không chỉ là phụ nữ chung chung như hiện nay), người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc…
- Về chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 6): Việc sửa đổi, bổ sung quy định này nhằm cập nhật những chính sách mới, đặc thù trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình, khuyến kích xã hội hóa phòng, chống bạo lực gia đình, phát huy cơ chế phối hợp liên ngành trong phòng, chống bạo lực gia đình.
- Về Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 7): Luật năm 2022 bổ sung quy định “Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình được tổ chức vào tháng 6 hằng năm để thúc đẩy hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình và tôn vinh giá trị gia đình”. Việc bổ sung tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình nhằm tăng cường công tác thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình. Các hoạt động để tổ chức Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình sẽ do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì, chỉ đạo, hướng dẫn.
- Về quyền và trách nhiệm của người bị bạo lực gia đình (Điều 9): Việc sửa đổi tên gọi Điều này để bảo đảm tính thống nhất chung trong các quy định trong Luật. Điểm nhấn trong tên gọi của Điều này là sự thay đổi về thuật ngữ “nạn nhân bạo lực gia đình” thành “người bị bạo lực gia đình” sự thay đổi này không làm thay đổi về nội hàm nhưng làm thay đổi về nhận thức hành động và phù hợp với thông lệ của quốc tế hiện nay.
Cơ bản Luật năm 2022 kế thừa các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị bạo lực gia đình, đồng thời bổ sung một số quyền như: Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình khắc phục hậu quả, bồi thường tổn hại về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thiệt hại về tài sản; Được thông tin về quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, xử lý hành vi bạo lực gia đình; Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Về nghĩa vụ: Luật năm 2007 chỉ quy định người bị bạo lực gia đình  có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Luật không nêu rõ là cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời như Luật năm 2022.
- Về trách nhiệm của người có hành vi bạo lực gia đình (Điều 10): Việc sửa đổi tên gọi điều này để bảo đảm tính thống nhất trong quy định quyền và trách nhiệm. Mặt khác, bổ sung trách nhiệm của người có hành vi bạo lực gia đình là “Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do mình gây ra cho người bị bạo lực gia đình, người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và tổ chức, cá nhân khác”.
- Về trách nhiệm của cá nhân, thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 11, Điều 12): Luật năm 2022 kế thừa 04 nội dung về trách nhiệm của gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình trong Luật năm 2007.
- Về quyền và trách nhiệm cá nhân: Luật năm 2007 chỉ quy định trách nhiệm của cá nhân trong phòng, chống bạo lực gia đình. Luật năm 2022 bên cạnh quy định trách nhiệm cá nhân khi phát hiện hành vi bạo lực gia đình như:
Báo tin, tố giác, tham gia bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình… đồng thời bổ sung quyền của cá nhân: “Được khen thưởng khi có thành tích trong phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; được bảo vệ, giữ bí mật về thông tin cá nhân khi báo tin, tố giác hành vi bạo lực gia đình; được Nhà nước hỗ trợ để bù đắp tổn hại về sức khỏe, tính mạng và thiệt hại về tài sản khi tham gia phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.”
2. Chương II. Phòng ngừa bạo lực gia đình
a) Chương II gồm 06 Điều (từ Điều 13 đến Điều 18): quy định về mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục; nội dung thông tin, truyền thông; hình thức thông tin, truyền thông, giáo dục; tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình; chủ thể tiến hành hòa giải.
b) So với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Chương này sửa đổi, bổ sung những nội dung cơ bản sau:
- Về mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục (Điều 13): Luật năm 2022 cơ bản kế thừa quy định về mục đích của thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm nâng cao nhận thức, định hướng hành vi ứng xử, góp phần xóa bỏ bạo lực gia đình.
Yêu cầu đối với thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình: Luật năm 2007 yêu cầu 3 nội dung đối với thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình. Còn Luật năm 2022 yêu cầu 05 nội dung trên cơ sở kế thừa Luật năm 2007 và bổ sung một số nội dung mới như: Ngoài yêu cầu chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực, Luật còn bổ sung yêu cầu phải thường xuyên; chú trọng thay đổi hành vi của người có hành vi bạo lực gia đình, người thường xuyên có hành vi cổ xúy cho bạo lực, kỳ thị, phân biệt đối xử về giới, giới tính, định kiến giới; bảo đảm an toàn thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình.
- Về nội dung thông tin, truyền thông, giáo dục (Điều 14): Cơ bản Luật năm 2022 kế thừa quy định Luật năm 2007 về nội dung thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình, tuy nhiên có bổ sung thêm một số nội dung như: Quyền con người, quyền công dân, bình đẳng giới trong gia đình; gương người tốt, việc tốt trong xây dựng gia đình hạnh phúc và phòng, chống bạo lực gia đình; kỹ năng bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hành vi bạo lực gia đình; kinh nghiệm phòng, chống bạo lực gia đình trong nước và quốc tế.
- Về hình thức thông tin, truyền thông, giáo dục (Điều 15): Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định 04 nhóm hình thức thông tin, truyền thông, giáo dục. Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022 đã bổ sung thêm các hình thức mới: Tổ chức cuộc thi, chiến dịch truyền thông;  Hội nghị, hội thảo, tập huấn, nói chuyện chuyên đề; loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại các Điều 9, 10, 11 Luật năm 2007 nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình trên diện rộng và có trọng điểm đối tượng cụ thể, nội dung, hình thức cũng được bổ sung để phù hợp với thực tiễn phát triển của khoa học truyền thông hiện nay. Mặt khác, việc thông tin, tuyên truyền, giáo dục cũng cần bảo đảm tình đồng bộ về vừa phê phán, vừa cung cấp kiến thức, kỹ năng nhưng cũng cần phải kịp thời phát hiện, biểu dương gương người tốt, việc tốt trong xây dựng gia đình hạnh phúc và phòng, chống bạo lực gia đình.
- Về hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 17): Luật năm 2007 chỉ quy định nguyên tắc hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình, không đề cập thế nào là hòa giải. Luật năm 2022 đã bổ sung về khái niệm hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình, cụ thể: “Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình là việc người tiến hành hòa giải hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình để không làm phát sinh, tái diễn hành vi bạo lực gia đình. Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình không thay thế biện pháp xử lý người có hành vi bạo lực gia đình”. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm khắc phục bất cập trong của hòa giải các vụ việc bạo lực gia đình hiện nay, điểm nhấn của điều này là “Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình không thay thế biện pháp xử lý người có hành vi bạo lực gia đình” và “hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình để không làm phát sinh, tái diễn hành vi bạo lực gia đình”.
Nguyên tắc trong hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình: Về cơ bản, Luật năm 2022 kế thừa các nguyên tắc trong hòa giải bạo lực gia đình của Luật năm 2007: Chủ động, kịp thời, kiên trì;  Tôn trọng sự tự nguyện của các bên và an toàn của người bị bạo lực gia đình; Khách quan, bình đẳng, có lý, có tình, phù hợp với quy định của pháp luật và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; Bảo đảm bí mật thông tin về đời sống riêng tư của các thành viên gia đình được hòa giải; Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Luật năm 2022 đã bỏ quy định về trường hợp không được hòa giải như: vi phạm thuộc tội hình sự, bị xử lý hành chính. Luật năm 2022 chỉ nêu chung nguyên tắc là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Về chủ thể tiến hành hòa giải (Điều 18): Luật năm 2007 và Luật năm 2022 đều quy định 03 chủ thể tiền hành hòa giải  đối với vụ việc bạo lực gia đình, đó là: thành viên gia đình, dòng họ;  cơ quan, tổ chức; tổ hòa giải ở cơ sở. Luật năm 2022 sửa đổi, bổ sung theo hướng gộp các nội dung tại Điều 13, 14, 15 Luật năm 2007 thành 1 điều và làm rõ phạm vi hòa giải cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hòa giải. Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 còn bổ sung quy định: “Trong trường hợp cần thiết có thể mời chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, người thân, người trong cơ quan, tổ chức của chủ thể có mâu thuẫn, tranh chấp và người được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về công tác xã hội, tâm lý học, người có kinh nghiệm trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình tham gia hòa giải.”
3. Chương III. Bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình
a) Chương III gồm 23 Điều (từ Điều 19 đến Điều 41): quy định về báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình; xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình; sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình; biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình; buộc chấm dứt hành vi bạo lực gia đình; yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã; cấm tiếp xúc theo quyết định của Tòa án; giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc; bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ nhu cầu thiết yếu; chăm sóc, điều trị người bị bạo lực gia đình; trợ giúp pháp lý và tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với bạo lực gia đình; giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình; góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư; thực hiện công việc phục vụ cộng đồng; bảo vệ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và người báo tin, tố giác về bạo lực gia đình; cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; địa chỉ tin cậy; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở trợ giúp xã hội, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cơ sở khác tham gia trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
b) So với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Chương này sửa đổi, bổ sung những nội dung cơ bản sau:
-  Về báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình (Điều 19): Luật năm 2007 quy định có 03 địa chỉ báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình là: công an nơi gần nhất hoặc UBND cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực. Luật năm 2022 bên cạnh kế thừa Luật năm 2007 còn bổ sung thêm Địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình gồm (06 địa chỉ):
+ Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
+ Cơ quan Công an, Đồn Biên phòng gần nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
+ Cơ sở giáo dục nơi người bị bạo lực gia đình là người học;
+ Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
+ Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;
+ Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật năm 2007 chỉ quy định địa chỉ báo tin về bạo lực gia đình, không quy định hình thức báo tin. Luật năm 2022 đã bổ sung quy định về hình thức báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình, gồm 3 hình thức:  Gọi điện, nhắn tin; Gửi đơn, thư; Trực tiếp báo tin.
- Về xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình (Điều 20): Đây là quy định được bổ sung mới, theo đó, việc xử lý tin báo, tố giác về bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022:
Bước 1: Cá nhân tổ chức báo tin, tố giác bạo lực gia đình tại một trong 06 địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác nêu trên.
Bước 2: Sau khi nhận được tin báo, tố giác thì cơ quan công an, Đồn Biên phòng nơi xảy ra hành vi bạo lực thực hiện:
+ Kịp thời ngăn chặn, xử lý trong phạm vi quyền hạn của mình.
+ Thông báo cho Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực
Các tổ chức, cá nhân: Cơ sở giáo dục nơi người bị bạo lực gia đình là người học; Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình khi nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình phải thông báo ngay cho Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình và theo khả năng của mình tham gia ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
Bước 3: Chủ tịch UBND cấp xã xử lý hoặc phân công xử lý ngay khi tiếp nhận tin báo, tố giác về bạo lực gia đình hoặc báo cáo bạo lực gia đình trừ trường hợp có dấu hiệu hình sự. Trường hợp tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình mà người bị bạo lực là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc hoặc hành vi bạo lực gia đình đã hoặc có khả năng gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người bị bạo lực thì Chủ tịch UBND cấp xã giao Công an xã, phường, thị trấn xử lý.
- Về sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình (Điều 21): Đây là quy định được bổ sung mới. Việc bổ sung quy định này nhằm khắc phục bất cập trong thời gian qua nhiều vụ việc bạo lực gia đình khi xử lý cơ quan có thẩm quyền thiếu căn cứ để xác định hành vi vi phạm, mặt khác, quy định này còn ngăn ngừa tình trạng sử dụng thông tin về vụ việc bạo lực gia đình đăng tải trên mạng xã hội gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người bị bạo lực gia đình và thành viên gia đình.
- Về biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình (Điều 22): Luật năm 2022 kế thừa và bổ sung thêm một số biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình như:  Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình;  Giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình; Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng.
- Về yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình (Điều 24): Nội dung này là nội dung mới được quy định tại Điều 24 Luật năm 2022. Theo đó, sau khi được phân công giải quyết vụ việc bạo lực gia đình, Trưởng Công an cấp xã có quyền yêu cầu người bạo lực đến trụ sở để làm rõ thêm các thông tin, giải quyết 02 trong trường hợp:
+ Người bị bạo lực gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc;
+ Khi có căn cứ cho rằng hành vi bạo lực gia đình đã hoặc có thể tiếp tục gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người bị bạo lực gia đình.
Việc yêu cầu đến trụ sở làm việc phải được lập biên bản và có người trong cộng đồng dân cư chứng kiến. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình không chấp hành yêu cầu thì Công an xã được sử dụng công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để đưa người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã.
- Về cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã; Cấm tiếp xúc theo quyết định của Tòa án; Giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc (Điều 25, Điều 26, Điều 27): Việc sửa đổi, bổ sung những quy định này nhằm bỏ quy định người bị bạo lực gia đình phải viết đơn đề nghị áp dụng cấm tiếp xúc để thay bằng quy định yêu cầu để vừa bảo đảm tôn trọng quyền của người bị bạo lực gia đình vừa giảm thủ tục hành chính “viết đơn” gây khó khăn cho người bị bạo lực gia đình.
- Về góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư (Điều 32): Việc sửa đổi, bổ sung quy định này nhằm làm rõ về nội dung góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình, bổ sung người có hành vi bạo lực gia đình là thành phần chính tham gia cuộc họp góp ý, phê bình. Trong quy định của Điều này Biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư được thực hiện đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên (Luật năm 2007 quy định đủ 16 tuổi trở lên), việc sửa đổi này được thực hiện cho phù hợp quy định pháp luật hiện hành ở nước ta từ đủ 18 tuổi cũng là tuổi được xác định là đủ mọi năng lực hành vi dân sự. Đối với quy định này, Luật  năm 2022 quy định cụ thể: Biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư được thực hiện đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên trong các trường hợp sau đây:
+ Có hành vi bạo lực gia đình từ 02 lần trở lên trong thời gian 12 tháng mà chưa đến mức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính;
+ Có hành vi bạo lực gia đình đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình.
- Về thực hiện công việc phục vụ cộng đồng (Điều 33): Đây là mộttrong những biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình được quy định tại Điều 33 Luật năm 2022. Theo đó, công việc phục vụ cộng đồng là công việc có quy mô nhỏ trực tiếp phục vụ cho lợi ích của cộng đồng nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú, bao gồm:
+ Tham gia trồng, chăm sóc cây xanh ở khu vực công cộng; sửa chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, đường phố, ngõ phố, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc công trình công cộng khác;
+ Tham gia công việc khác nhằm cải thiện môi trường sống và cảnh quan của cộng đồng
Danh mục công việc do Chủ tịch UBND cấp xã công nhận trên cơ sở thảo luận, quyết định của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Chủ tịch UBND cấp xã nơi người có hành vi bạo lực gia đình cư trú quyết định và tổ chức cho người có hành vi bạo lực gia đình thực hiện công việc phục vụ cộng đồng.
- Về bảo vệ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và người báo tin, tố giác về bạo lực gia đình (Điều 34): Việc bổ sung quy định này nhằm khắc phục bất cập thời gian qua người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình bị người có hành vi bạo lực gia đình xâm hại đến sức khỏe, danh dự, làm thiệt hại về tài sản, thậm chí đã có trường hợp bị chết khi ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. Quy định về biện pháp bảo vệ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, người báo tin, tố giác bạo lực gia đình nhằm khuyến khích xã hội hóa nguồn nhân lực tham gia phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng.
- Về cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 35): Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, cơ sở trợ giúp phòng chống bạo lực gia đình bao gồm: Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở bảo trợ xã hội; Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. Điều 35 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022 bổ sung thêm cơ sở trợ giúp phòng chống bạo lực gia đình bao gồm: Địa chỉ tin cậy; Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở trợ giúp xã hội; Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Cơ sở khác tham gia trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; Cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm khắc phục bất cập trong công tác tổ chức thực hiện do thiếu những quy định cụ thể cũng như chưa thể hiện được xã hội hóa, huy động tổ chức, cá nhân tham gia vào phát triển các dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Chương IV. Điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình
a) Chương IV gồm 04 Điều (từ Điều 42 đến Điều 45) quy định về kinh phí phòng, chống bạo lực gia đình; cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình; phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống bạo lực gia đình.
b) Chương này là chương bổ sung mới so với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Những quy định được bổ sung trong Chương này nhằm khắc phục bất cập trong phối hợp liên ngành trong phòng, chống bạo lực gia đình; đào tạo, bồi dưỡng người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình; kinh phí cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu phòng, chống bạo lực gia đình. Việc bổ sung mới các quy định này sẽ giúp cho việc triển khai, thi hành Luật đạt hiệu quả và đi vào cuộc sống sớm hơn.
5. Chương V. Quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng, chống bạo lực gia đình
a) Chương V gồm 09 Điều (từ Điều 46 đến Điều 54): quy định về nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp; trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; trách nhiệm của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế.
b) So với Luật năm 2007, Chương này sửa đổi, bổ sung:
- Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 47); trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Điều 48); trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Điều 49); trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp (Điều 51); trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên (Điều 52); Trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Điều 53): các quy định này được sửa đổi nhằm bảo đảm tính thống nhất, khắc phục những bất cập trong quản lý nhà nước, vai trò của các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.
- Chương này bổ sung mới 3 điều, cụ thể là: Nội dung quản lý Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 46): Việc bổ sung quy định này nhằm quy định rõ nội dung quản lý Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình giúp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp (Điều 50): Việc bổ sung quy định này nhằm khắc phục những bất cập trong quản lý Nhà nước, phát huy vai trò của chính quyền địa phương các cấp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Trách nhiệm của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế (Điều 54): Việc bổ sung quy định nhằm phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế trong phòng, chống bạo lực gia đình.
6. Chương VI. Điều khoản thi hành
a) Chương VI gồm 02 Điều (Điều 55, Điều 56): quy định về sửa đổi, bổ sung Điều 135 của Bộ luật Tố tụng dân sự và hiệu lực thi hành.
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 135 của Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 55):
Điều 55 Luật năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung Điều 135 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:“Điều 135. Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 14 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”
Như vậy, từ ngày 01/7/2023, Tòa án được quyền tự ra quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc.
 
Tin liên quan