Cùng với hệ thống tư tưởng về phong cách quần chúng, trong thực tế, từ suy nghĩ (tư duy) đến nói, viết (diễn đạt) và biểu hiện ra qua hoạt động sống hàng ngày (làm việc, ứng xử, sinh hoạt) của Hồ Chí Minh cũng chính là một tấm gương đạo đức sáng ngời về phong cách quần chúng, gần dân, hiểu dân, tin dân, tôn trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách gần dân. Sự gần gũi đó được thể hiện ngay từ phút đầu tiên Người ra mắt quốc dân. Khi vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn độc lập, Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Chỉ là một câu hỏi thôi, một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng bào toàn quốc! “Cả muôn triệu một lời đáp: Có! Như Trường Sơn say gió Biển Đông”. Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang trọng nhất.
Năm 1957, Bác Hồ về thăm Quảng Bình. Cuộc mít tinh quần chúng đón Bác được tổ chức tại sân vận động thị xã Đồng Hới. Nói chuyện với đồng bào, Người nhắc nhở nhiều điều, trong đó có việc phải chú ý chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình đồng bào miền Nam tập kết,… rồi Người đọc chậm rãi câu ca dao:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bác đọc đến đâu, đồng bào đọc theo đến đó. Một âm thanh hòa quyện vang lên thân thiết giữa lãnh tụ và quần chúng. Các thành viên Tổ cổ động của Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế đóng tại Đồng Hới, có mặt tại cuộc mít tinh, đã hết sức ngạc nhiên. Họ nói với cán bộ ta: “Trong đời chúng tôi chưa bao giờ thấy một thủ lĩnh quốc gia nào gần gũi, thân thiết với nhân dân như Bác Hồ của Việt Nam. Ở nước chúng tôi, Tổng thống cũng đọc diễn văn rất hay. Rất tiếc cái hay đó chỉ có một số ít người trong dân chúng hiểu. Còn ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn thì hàng vạn người đều hiểu được và đọc theo, như cha đọc cho con nghe, thầy đọc cho trò nghe…, thật là gần gũi và thân thiết!".
Trong đời sống hàng ngày, Người thường tranh thủ đi thăm, chuyện trò thân tình với các cụ già, gặp gỡ chiến sĩ và đồng bào các địa phương, để nắm tình hình và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Bác Hồ thâm nhập vào quần chúng bằng phong cách thật sự của người cán bộ quần chúng, bằng nụ cười hiền hậu, giọng nói ấm áp và vòng tay rộng mở… Nhân dân ta từ già đến trẻ thuộc mọi tầng lớp, dân tộc, mọi thế hệ đều gọi Người bằng hai tiếng "Bác Hồ" bởi vì Bác đến với mọi người một cách rất bình dị, tự nhiên, không cần một nghi thức nào. Gặp gỡ nông dân đang cấy thì Người cũng bỏ dép, xắn quần, lội ruộng hoặc đi thăm tàu hải quân thì Người cũng cầm lái như một thuỷ thủ… Từ buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước đến khi trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, từ việc lớn đến việc nhỏ của Người đều thể hiện sự quán triệt tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Điều đó đã trở thành một nhu cầu, một nếp sống, thành tâm niệm suốt đời của Người. Ta hiểu vì sao Người thường nhắc đến câu ca truyền miệng của nhân dân Quảng Bình:
Dễ mười lần không dân cũng chịu.
Khó trăm lần dân liệu cũng xong
Giữ được chân lý quý báu này thì sự nghiệp dù khó mấy cũng thành công. Xa rời chân lý này thì cơ đồ cha ông để lại có đồ sộ mấy rồi cũng sẽ ngả nghiêng, sụp đổ.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về tác phong sâu sát. Theo một thống kê chưa thật đầy đủ, chỉ tính trong vòng 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955 – 1965), không quản tuổi cao, công việc bộn bề, Bác Hồ đã thực hiện trên dưới 700 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội,… từ miền núi đến hải đảo, để thăm hỏi chiến sỹ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng. Đó là một kỷ lục khó ai có thể vượt qua, nhất là đối với một lãnh tụ ở tuổi 70.
Hồ Chí Minh cũng là tấm gương về lòng yêu mến, tôn trọng và tin tưởng rất mực vào khả năng và sức mạnh của nhân dân.Trọng dân, Người đến với dân. Trọng dân, Người gần gũi với các cụ già, trẻ thơ, thăm hỏi ân cần những người dân lương thiện, lao động cần cù, một nắng hai sương, an ủi họ, tạo mọi điều kiện để họ có cơ hội sống tốt, sống khỏe, sống vì mình, vì người, vì cộng đồng các dân tộc anh em. Chính phong cách đi đúng đường lối quần chúng của Người có sức hút kỳ lạ, làm cho quần chúng đến với Người không chút e ngại, bình dị, tự nhiên. Tác phong ấy làm cho lãnh tụ và quần chúng dễ dàng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Nhờ vậy, mọi người có thể nói hết những suy nghĩ, trăn trở của mình, còn Người thì lắng nghe để có thể hiểu được nhịp đập của cuộc sống chung quanh.
Cả cuộc đời tận tâm, tận lực cho sự nghiệp đấu tranh để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, Hồ Chí Minh luôn thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của nhân dân, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những tiếng nói, hành động từ cụ thể đến lớn lao để bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân. Ngay từ những năm tháng gian nan, vất vả đi tìm đường cứu nước, Người đã nói rõ mục đích của mình là để giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ ở Việt Nam.
Không chỉ gần dân, học dân, hiểu dân, tin dân, trọng dân, Hồ Chí Minh còn làm một tấm gương vĩ đại về tình yêu thương bao la dành cho nhân dân. Chỉ hơn một tháng sau ngày tuyên bố độc lập, Người đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các cấp nhắc nhở: Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta; đồng thời phê phán những lỗi lầm như tư thù tư oán, cậy quyền cậy thế, ăn tiêu xa xỉ, kéo bè kéo cánh, kiêu căng coi thường dân chúng... Yêu dân không thể chỉ trên lời nói suông mà phải bằng hành động cụ thể: gần dân để hiểu rõ đời sống, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những điều bức xúc của dân để giải quyết kịp thời, để nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm, tinh thần chí công vô tư, để nghĩ ra những chính sách nhằm từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Người đã từng nói: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi".
Thương yêu nhân dân, Người không muốn có cuộc sống vật chất cao sang khi người dân còn thiếu thốn, vất vả. Người dành hết thời gian để lo cho dân từ việc rất lớn là việc cứu nước đến việc rất nhỏ, trồng cây trong vườn, viết một bức thư cho một đồng chí, nói chuyện với các cháu miền nam, đi thăm nhà tập thể của công nhân từ nơi làm việc đến phòng ngủ, nhà ăn...
Thật khó mà nói cho hết những việc Chủ tịch Hồ Chí Minh làm suốt ngày, suốt đời, để phục vụ cuộc sống tinh thần và vật chất của nhân dân. Đó là niềm vui, là khát vọng, là lý tưởng của Người. Vì nhân dân, Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".
HD tổng hợp