KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Lịch sử Đảng bộ Hưng Yên
Đăng ngày: 20/01/2015 - Lượt xem: 317
Làng nôm và bài học về văn hóa kinh doanh

Làng Nôm là một làng nhỏ (hiện có diện tích tự nhiên là 43,7ha, hơn 175 gia đình, với trên 600 nhân khẩu), nhưng có cảnh quan đẹp, nhiều công trình kiến trúc truyền thống thuần Việt còn được lưu giữ đến nay.

Cảnh quan và quần thể di tích làng Nôm
Làng Nôm là một làng nhỏ (hiện có diện tích tự nhiên là 43,7ha, hơn 175 gia đình, với trên 600 nhân khẩu), nhưng có cảnh quan đẹp, nhiều công trình kiến trúc truyền thống thuần Việt còn được lưu giữ đến nay.
Làng Nôm xưa kia là một làng buôn bán sầm uất. Dân làng mua nguyên liệu đồng để bán lại cho các lò đúc đồng ở tại địa phương, như: Đại Bái (Bắc Ninh), Trúc Bạch (Hà Nội), làng Chè (Thanh Hóa)... Làng có một cổng chính được xây dựng bề thế, có 8 trục vuông, trên vòm cổng đắp một đại tự, với 3 chữ nổi “Đồng Cầu Môn” (cổng làng Đồng Cầu). Cách cổng làng vài trăm mét có một cầu đá, với 9 nhịp đầu rồng bắc qua con sông Nguyệt Đức, nối đường làng với chợ Cầu Nôm và chùa Đại Đồng (chùa Nôm) - tên tự là Linh thông cổ tự. Giữa làng có một hồ lớn, dài trên 300m, rông khoảng 80m, ở giữa hồ có một chiếc cầu đá bắc qua. Quanh hồ là những ngôi nhà mái ngói cổ; đặc biệt có 7 nhà thờ của 7 dòng họ xây liền nhau, kiến trúc theo kiểu dáng cổ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cuối hồ có cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi trùm lên ngôi đình Nôm, thờ Thành hoàng làng là Tam Giang - người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc Tây Hán và hiển linh giúp Lê Đại Hành đánh thắng giặc Tống, được vua phong “Hộ Quốc Phúc Thần”. Đường đi quanh hồ, từ cổng làng đến cầu đá tới chợ Nôm và vào chùa Nôm được vỉa gạch nghiêng.
Chùa Nôm, đình Nôm, cầu Nôm, chợ Cầu Nôm, cổng làng, sông Nguyệt Đức, cùng với những ngôi nhà cổ là những di sản văn hoá tạo nên quần thể làng Nôm có một vẻ đẹp cổ thuần Việt có một không hai ở vùng đồng bằng sông Hồng. Đây chính là một quần thể di tích lịch sử văn hoá có các yếu tố cơ bản tạo thành một làng quê tiêu biểu của Việt Nam. Ngày 12-2-1994, Bộ Văn hoá - Thông tin đã cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hoá cho quần thể di tích làng Nôm.

Ngoài di sản văn hoá vật thể, người làng Nôm có đời sống tín ngưỡng, tâm linh phong phú. Trong một năm, nhiều lễ hội được tổ chức (12 tháng Giêng hội làng, 13 tháng Giêng các dòng họ làm lễ tế Xuân, 15 tháng Giêng làm lễ Thượng nguyên, 15 tháng Tư lễ Trung nguyên, 15 tháng Bảy lễ Hạ nguyên và 21 tháng Chạp là lễ Tất niên). Trong ngày hội làng, đàn ông trong làng đến tuổi 55 được khao lão, người đi xa không về thì phải nộp lệ trình làng. Con gái làng đi lấy chồng phải cung tiến vào đình 20 mâm đồng hoặc xây dựng vài chục mét đường làng bằng gạch (ngày nay, tập tục này đã được bãi bỏ).

Bài học về văn hóa kinh doanh
Khi mới hình thành, nghề chính của làng Nôm là làm nông nghiệp, sau này dân trong làng đi mua đồng phế liệu (đồng nát) bán cho các làng nghề đúc đồng trong vùng, mua đồ đồng gia dụng bán lại cho các địa phương trong cả nước; và câu nói: “Đồng nát thì về Cầu Nôm” là như vậy.
Xác định được nghề, tích lũy được vốn, người làng Nôm tỏa đi khắp nơi để phát triển nghề; dấu chân người làng Nôm đã in đậm ở nhiều tỉnh, thành, như: Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, kinh thành Thăng Long. Đến thời Pháp thuộc, nghề buôn phế liệu đồng của người làng Nôm vươn đến tận Sài Gòn. Những địa danh kể trên, chỗ nào cũng có phố Hàng Đồng và ở đó đều có người làng Nôm buôn bán phát đạt.
Chỉ bằng đôi quang gánh, từ thế kỷ XVII, XIII, đầu thế kỷ XIX, người làng Nôm đã làm chủ thị trường từ Bắc vào Nam về về nguyên liệu đồng nát và đồ đồng gia dụng. Tại sao người làng Nôm làm được như vậy trong gần 3 thế kỷ? Qua tìm hiểu lịch sử làng Nôm, thì có thể khẳng định rằng, văn hóa trong kinh doanh đã tạo cho làng Nôm cả thế và lực để duy trì và phát triển; chứ không phải như nhiều người nói: “Lịch sử đã giao phó cho làng Nôm một trọng trách: cung cấp nguyên liệu cho các làng nghề đúc đồng”. Văn hóa trong kinh doanh của người làng Nôm được khái quát bằng những luận giải sau:
Một là, giáo dục truyền thuyết để làm việc thiện. Người làng Nôm truyền đời kể cho con cháu nghe rằng: “Làng Nôm hình con thuyền. Đã là thuyền thì phải ra đi. Trời lại đặt ở giữa làng một cái cân. Cán cân là con đường xuyên giữa làng. Cổng làng có cây đa hình mũ đồng cân. Quả cân là mô đất cao phía Tây - đây là Văn chỉ của làng. Vì thế, làng Nôm là làng buôn bán. Người làng càng đi xa, càng kinh doanh phát đạt”. Vẫn biết đó là truyền thuyết tâm linh, nhưng nó giáo dục con cháu phải hiểu “phi thương bất hoạt” và trong kinh doanh phải trọng chữ tín, không “Đong đầy, bán vơi; mua rẻ, bán đắt”. Ở Làng Nôm, nếu có ai gian lận trong kinh doanh, dù chỉ một lần cũng bị người làng nguyền rủa, có thể phải bỏ làng mà đi nơi khác.
Hai là, xác định rõ mục đích kinh doanh. Không như bây giờ, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước cho từng giai đoạn được các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng đến mọi người dân. Ở làng Nôm, cách đây vài trăm năm làm gì có thông tin về thị trường, vua chúa thời đó đâu có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho từng vùng, từng địa phương. Nhưng, người dân làng Nôm đã xác định được mục tiêu kinh doanh của làng là buôn bán đồng. Trong khi đó, ở các vùng lân cận nghề đúc đồng rất phát triển, nhưng người làng Nôm không “chạy theo” mà vẫn kiên trì buôn “đồng nát”, nghề rất thấp hèn theo quan niệm phong kiến: Sỹ, Nông, Công Thương để cung cấp nguyên liệu cho các lò đúc đồng. Thế mới biết người làng Nôm thời đó đã hiểu rất sâu sắc tính chuyên môn hóa trong sản xuất, kinh doanh. Người dân nơi đây đã tự ý thức được nhu cầu sản xuất trong xã hội mà nắm bắt thị trường và vươn lên làm chủ sản xuất và cuộc sống của mình. Thế mà đến nay, ở một số nơi vẫn tổ chức sản xuất theo kiểu “phong trào”, khi được giá thì đổ xô vào đầu tư nuôi, trồng; khi mất giá thì lại ồ ạt chặt bỏ. Và rồi lại “kêu trời” và kiến nghị Nhà nước hỗ trợ! Nếu cứ như vậy, không biết đến bao giờ mới thoát khỏi cung cách làm ăn “chộp giật”, tự phát.
Thiết nghĩ, bài học về văn hóa kinh doanh của làng nghề Việt Nam như làng Nôm cần được đúc kết lại và phổ biến sâu rộng hơn.
Ba là, doanh nhân làng Nôm. Muốn có văn hóa kinh doanh thì phải có con người kinh doanh có văn hóa. Xin nêu một vài tấm gương tiêu biểu về doanh nhân làng Nôm bằng văn hóa kinh doanh của mình đã thống trị lĩnh vực đồng phế liệu và đồng gia dụng, tạo cho làng Nôm một nét văn hóa kinh doanh mà ngày nay cần:
- Bà Phùng Thị Tám, chỉ bằng đôi quang gánh đi buôn tuyến đường Nôm - Thanh Hóa đã làm vẻ vang cho gia đình và cho làng, được vua nhà Nguyễn phong bốn chữ “Tiết hạnh khả phong”.
- Bà Tạ Thị Mai, chỉ bằng nghề kinh doanh đồng đã mua được cả dãy phố ở Hải Phòng. Vì thế nhà tư sản Ích Đại người hoa, của cải “như nước” cũng phải xếp vị trí thứ hai sau bà. Sau năm 1954, bà đã hiến cho Nhà nước 36 gian nhà kho.
Như vậy, có thể nói: Làng Nôm là nơi khởi nguồn của văn hóa doanh nhiệp/văn hóa kinh doanh và danh nhân văn hóa ở nước ta. Đây là một niềm tự hào của Hưng Yên - một vùng đất văn hiến.
(Bài do tiến sỹ Lê Minh Phụng gửi trực tiếp cho Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên số Tết Nhâm Thìn)
Tin liên quan