Trong số các thủ lĩnh vũ trang chống Pháp vào nửa cuối thế kỷ XIX ở các phủ huyện nay thuộc tỉnh Hưng Yên thì Đề đốc Tạ Hiện (? - 1887), quê làng Quang Lang, nay thuộc xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên đã được dân gian xếp vào bậc nhất: “Thứ nhất Đề Hiện Quang Lang/Thứ nhì Bang Tốn ở làng Hoàng Nông/Thứ ba Án Kiến Động Trung/Thứ tư Ngự sử ở vùng Phù Lưu”.
Tạ Hiện được xếp ở ngôi đầu, không chỉ vì ông là Đề đốc Định - An (Nam Định - Hưng Yên) lại đích thân làm thủ lĩnh một phong trào vũ trang kháng Pháp trên địa bàn rộng lớn ở Hưng Yên và các tỉnh khác của Bắc Kỳ mà ông còn là một nhân vật có vai trò thiết yếu trong việc tạo lập và điều hành sự liên kết giữa các phong trào kháng Pháp ở Bắc Kỳ trước và sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần vương (1885).
Năm 18 tuổi, Tạ Hiện đăng tuyển vào làm lính của quân nhà Nguyễn. Do sức khỏe cường tráng và giàu chí hướng lập thân theo nghiệp võ nên sau vài năm ông thi đậu Tú tài võ, được phong chức Hành tẩu, rồi lần lượt được thăng dần các chức thuộc ngạch võ tới Đề đốc Bắc Ninh.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định thất thủ, Tạ Hiện đang là một võ quan trong triều đình Huế đã làm tờ tâu xin được về quê ngay để tập hợp thân hào, chiệu mộ thủ dũng lấy lại thành để báo đền ơn nước. Được triều đình chuẩn y và cử Tạ Hiện giữ chức Đề đốc Định - An (Nam Định - Hưng Yên) thay cho Lê Văn Điếm đã tử trận.
Nghe tin Tạ Hiện về nhận chức Đề đốc Định - An triển khai kế sách lấy lại thành Nam, nhiều văn thân, sĩ phu trong vùng đã đưa dân binh đến hợp sức. Nhằm thống nhất lực lượng kháng Pháp, Tạ Hiện đã nhanh chóng cho củng cố và thiết lập thêm các đường ngựa trạm tỏa đi các vùng xung yếu của Nam Định - Hưng Yên.
Để tính kế lâu dài, Tạ Hiện đã lập căn cứ tại làng An Điện, nay thuộc xã Vạn Xuân, tỉnh Hưng Yên, nằm kề ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý. Với cương vị Đề đốc, ông đã khôn khéo tập hợp các lực lượng yêu nước ở Định - An và các tỉnh lân cận để liên kết cùng xây dựng các căn cứ kháng Pháp mà trước mắt là phối hợp lực lượng để tiến đánh lấy lại thành Nam Định.
Vào đầu tháng 6 năm 1883, Tạ Hiện đã chỉ huy nghĩa quân đông tới vài ngàn người chia làm bốn cánh tiến công đánh thành Nam Định, tuy chưa lấy lại được thành nhưng bọn giặc chiếm đóng thành đã chịu tổn thất nặng nề. Sau trận này, khí thế chống Pháp ở Định - An thêm sục sôi thì triều đình Huế ra chỉ dụ phải rút bỏ hương dũng, triệt binh trên toàn cõi Bắc kỳ. Với cương vị Đề đốc, Tạ Hiện bề ngoài thì ra lệnh cho các đạo quân án binh nhưng bên trong thì ngầm chỉ huy các địa phương khẩn trương củng cố thế trận, nhất là ở những nơi xung yếu. Mặc dù triều đình đã nhiều lần ra mật dụ, bọn Pháp nhiều lần đòi gặp nhưng Tạ Hiện vẫn thác cớ là ốm và khẩn thiết củng cố mối liên kết giữa các phong trào ở Định - An. Do nhận thức rõ triều đình mà ông phụng sự đang ngày thêm một yếu hèn, không còn đáng là chỗ dựa để mà thực thi hoài bão đánh đuổi quân xâm lược Pháp nên Tạ Hiện đã nộp ấn từ quan vào tháng 12/1883 cho dễ bề hoạt động.
Việc treo ấn từ quan của Tạ Hiện đã nêu một tấm gương cho nhiều văn thân, sĩ phu noi theo. Ngay tức khắc, Ngự sử Phạm Huy Quang, quê làng Phù Lưu, Bang biện Hoàng Đình Tốn, quê làng Hoàng Nông, nay thuộc tỉnh Hưng Yên; Tri phủ Hoàng Văn Hòe quê Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh...đã nhất loạt từ quan để cùng Tạ Hiện xây dựng lực lượng kháng chiến.
Biết rất rõ sự nguy hiểm của lực lượng quân sự do Tạ Hiện cầm đầu, ngày 22/1/1884, đích thân công sứ Bơ - ri - e (Brière) chỉ huy một lực lượng lớn quân thủy, bộ với nhiều thuyền máy, súng lớn từ Nam Định kéo sang nhằm triệt hạ căn cứ An Điện. Được tin mật báo trước, Tạ Hiện tăng cường lực lượng bố phòng nhiều vòng quanh khu căn cứ. Do vậy, khi quân Pháp đổ bộ bao vây căn cứ thì nghĩa quân của Tạ Hiện đã hoàn toàn ở thế chủ động. Phải sau nhiều tiếng đồng hồ quân Pháp mới vượt qua được vòng ngoài và bị cầm chân trong trận chiến giáp lá cà quyết liệt ở vòng trong, với sự yểm trợ của nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật từ Bãi Sậy kéo sang. Trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân địch buộc phải mở đường máu rút lui. Căn cứ An Điện chưa bị lọt vào tay giặc nhưng cũng bị tổn thất lớn về lực lượng. Sau trận này, Tạ Hiện cho phân tán lực lượng nghĩa quân và vũ khí thành nhiều nơi, thiết lập và củng cố thêm các khu căn cứ. Các căn cứ: Hoàng Nông của Bang Tốn, Động Trung của Án Kiến, Phủ Gạch của Ngự sử Phạm Huy Quang, Đô Kỳ của Đốc Nhưỡng, Thọ Vực của Lãnh Hoan, Phan Bổng của cha con ông cháu Nguyễn Thành...đã ra đời vào thời điểm đó.
Nhằm thống nhất hơn nữa việc chống Pháp ở các tỉnh Định - An, Hải Dương, Bắc Ninh...Đề Hiện đã ngầm gặp những người kiên quyết chủ chiến như Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, Tán lý Nguyễn Cao, Đốc học Ngô Quang Huy...bàn bạc để lập ra tổ chức “Bình Tây đại nghĩa đoàn” và tiếp tục mở rộng địa bàn hoạt động tới các tỉnh trung du, thượng du Bắc Kỳ.
Cuối tháng 6/1884, Tạ Hiện đã cùng Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Huy Quang và một số yếu nhân khác đưa quân lên tận Lạng Sơn phối hợp với quân Cờ Đen và lực lượng kháng chiến tại chỗ đập tan cuộc tấn công của một binh đoàn Pháp lập nên chiến công đánh bại quân Pháp ở cầu Quan Âm và thu phục được đồn Bắc Lệ. Chiến công này là một trong những dấu son ghi nhận sự lan tỏa và ảnh hưởng của mối liên kết giữa phong trào Bãi Sậy với các phong trào kháng Pháp trong cả nước trước khi có chiếu Cần vương, trong đó có vai trò trọng yếu của Tạ Hiện.
Thấy rõ nguy cơ từ các phong trào vũ trang Cần vương nổi lên đồng loạt ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp phải tập hợp lực lượng càn quét, đánh dẹp. Trong vòng hơn một năm, từ cuối năm 1885 đến đầu năm 1887, quân Pháp đã dùng nhiều binh đoàn thiện chiến đánh phá vào các căn cứ kháng Pháp ở Hưng Yên. Trong tình thế đó, vai trò Đô thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần kiêm Đề đốc Định - An của Tạ Hiện càng nổi bật hơn. Ông đã cùng ba con trai của mình là Cả Hổ, Hai Hùm, Ba Beo chia nhau đi kết hợp với thủ lĩnh của phong trào ở nhiều nơi để triển khai những trận đánh xuất thần. Ngoài các trận tập kích nhỏ lẻ, bất ngờ và những trận có sự hợp đồng chiến đấu giữa các cánh quân trên địa bàn Định - An, thì Tạ Hiện đã cùng Tán Thuật, Đốc Tít và các yếu nhân khác của phong trào Bãi Sậy triển khai nhiều trận chiến, mở rộng địa bàn ra các tỉnh Kiến An, Hải Dương và có lần phối hợp với nghĩa quân của Tôn Thất Úy từng làm Tuần phủ Ninh Bình đã trả quan, đánh vào thành Nho Quan.
Với cương vị Đô thống quân vụ đại thần Bắc kỳ, lại đích thân làm thủ lĩnh một phong trào vũ trang kháng Pháp trên địa bàn rộng lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạ Hiện giữ vai trò chỉ đạo, liên kết các phong trào vũ trang kháng Pháp ở Bắc Kỳ, trong đó Tạ Hiện là một nhân vật có vai trò thiết yếu tạo lập và điều hành sự liên kết giữa các phong trào kháng Pháp ở các vùng miền, trong đó có phong trào ở Thái Bình liên kết với phong trào Bãi Sậy ở Hưng Yên. Thực tế lịch sử đã cho thấy hầu hết các phong trào kháng Pháp ở các tỉnh phía nam đồng bằng Bắc Bộ có quan hệ với phong trào Bãi Sậy đều trực tiếp hoặc gián tiếp do Tạ Hiện cùng Nguyễn Thiện Thuật bàn mưu thiết lập nên.
Bình sinh, Đề đốc Tạ Hiện thường xuất quỷ nhập thần, thoắt đi, thoắt đến các căn cứ chống Pháp và đến cái chết của ông cũng khôn lường. Có tài liệu ghi là ông mất vào đêm ngày 2/2/1887, tại Bình Bắc, thuộc vùng Phả Lại, Chí Linh nhưng khá nhiều tài liệu còn ghi những hoạt động của Tạ Hiện từ 1887 đến 1891.
Từ khi vua Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888 trở đi, các phong trào vũ trang Cần vương chống Pháp trên phạm vi cả nước lần lượt bị lắng xuống. Các căn cứ chống Pháp trên địa bàn Định - An cũng bị co hẹp dần nhưng khí thế chống Pháp thì vẫn ngầm sôi sục trong giới sĩ phu, văn thân và các tầng lớp nhân dân ở khắp các địa phương...
Nguồn:baohungyen.vn